Logo
Trang chủ
Phần 18: FINAL CHAPTER - Bí Mật Ở Vancouver

Phần 18 - Chương 2

2 chiếc trực thăng vẫn quần thảo trên đầu, chúng dùng súng máy cỡ lớn bắn xối xả vào những vị trí nghi ngờ chúng tôi ẩn nấp khiến việc tác chiến của chúng tôi khó khăn đáng kể, toán biệt kích trên tàu đã bị diệt quá nữa cũng khiến chúng chùng chân. Thay vì bổ vào lùng xục như ban đầu thì chúng co cụm phòng thủ phía mũi tàu, chiếm giữ 1/3 thân tàu và đợi viện trợ.

 

Chris lúc này đã thấm mệt nhưng vẫn ra dấu hỏi tôi có lên diệt nốt 3 tên kia không, tôi lắc đầu vì càng chiến đấu chúng tôi càng thiệt, tốt nhất là tìm đường rút thì hơn. Thú thật mà nói dù đang chiếm ưu thế nhưng càng nhây nhưa càng bất lợi, nhảy xuống nước trực thăng nó càng cũng chết mà ở trên tàu chúng nó đổ bộ thêm 1 tiểu đội nữa thì chúng tôi cũng “gãy"

 

Tạm thời né tránh chiếc trực thăng chúng tôi quyết định rút khỏi boong xuống thân tàu. Trong thân tàu qua mỗi cabin - modul đều có cửa thép lớn để khoá lại chống nước phòng trường hợp thân tàu bị vỡ thì nước không luồn vào toàn bộ con tàu đánh chìm. Đi đến đâu chúng tôi dùng dây chữa cháy và rìu lèn cửa đến đó để tránh bọn chúng đuổi theo. 

 

Đúng như dự đoán, chưa rút vào trong được bao lâu thì 3 chiếc trực thăng khác bay đến đổ quân lên boong tàu, tôi và Chris giờ đã đến hầm máy.

 

Trong hầm tối om, mùi dầu nhớt lâu ngày ngột ngạt, tôi và Chris chia nhau ra tìm một cái tủ thiết bị lặn và mất một hồi chúng tôi mới tìm thấy, trong tất cả các tàu viễn dương lúc nào cũng có trang bị đủ vật dụng đủ cho con tàu dùng trong vài tháng bao gồm cả bình khí và thiết bị lặn để thợ máy lặn xuống gỡ lưới, rác bị cuốn vào chân vịt tàu. Kiểm tra thấy bình khí vẫn còn hoạt động tốt, tôi và Chris mỗi người lấy thêm 2 cuộn chì chừng 20kg buộc vào chân và mở cổng khí xả của buồng máy trèo ra ngoài.

 

Vừa ra đến nơi đã nghe một tiếng nổ lớn vọng lại, đích thị là bọn biệt kích đã phá cửa xông vào trong, tôi ném lại một mồi lửa đốt cháy hầm máy rồi lựa lúc trực thăng bay khuất cả 2 nhảy ùm xuống nước.

 

2 cuộn chì kéo chúng tôi xuống sâu lòng kênh đào chừng 10 mét, áp lực nước tăng cao khiến cho màn nhĩ tôi đau kinh khủng, lỗ tai lùng bùng còn lồng ngực bị nén lại đến độ cắn vào họng lấy khí nhưng chẳng thở được bao nhiêu. Đêm thì tối , nước thì lạnh , ngnn lên trên thấy ánh đèn của trực thăng vẫn quét ngang quét dọc, Christ kéo tôi đi về phía bờ.

 

Vì đây là lòng kênh đào nhân tạo nên ở dưới toàn cát là cát, việc đi lại cũng không khó khăn mấy. Chúng tôi lựa hướng nước sâu mà đi được khoản 15 phút thì các ảnh đèn trực thăng trên đầu bắt đầu toả ra, quét ngang quét dọc trên mặt nước, ước chừng đã biết chúng tôi thoát khỏi tàu. Bình khí còn chừng đâu 1 tiếng chỉ có cách hy vọng chúng hết nhiên liệu trước chúng tôi.

 

Tôi lúc này đã quen với áp suất dưới nước, hít thở cũng dễ chịu và bớt căng thẳng hơn, tầm nhìn cũng rõ ràng và xa hơn vì mắt đã quen với bóng tối. Nước kênh không đục lắm, tôi nhìn thấy từ xa xa cách chúng tôi gần trăm mét có một vật thể đầu tròn đen trùng trục. Mớt đầu hồn vía tôi lên mây vì chẳng may là con quoái thú gì thì chết nhưng không, nó hoàn toàn bắt động giống một khối cấu trúc dưới nước hơn là con vật.

 

Chỉ cho Chris rồi cả 2 cùng kéo lại xem là cái gì, càng đến gần mới phát hiện đó là 1 con tàu ngầm neo lở lửng giữa dòng kênh. Tháo 2 cuộn chì chúng tôi bơi lên rồi chui vào silo, các tàu ngầm đều có 1 khoan để thả và thu trinh sát hoặc biệt kích, để vào khoan này cần chui vào trước, khoá cửa lại để ngăn nước bên ngoài vào rồi tháo nước trong silo ra, tiếp đó mới vào tàu ngầm được.

 

Đây là 1 chiếc tàu ngầm lớp Seawolf (Sói biển) của đệ Ngũ Hạm Đội Mỹ, tôi và Chris vào trong thấy tàu bị bỏ lại trong tình trạng tốt, các cửa và thiết bị được niêm phong cẩn thận, không có dấu hiệu nổi loạn hay chém giết.

 

Kênh đào Suez là lối ra của tất cả các tàu bè kể cả tàu ngầm quân sự từ Địa Trung Hải đi Ấn Độ Dương, bạn tưởng tượng nó như là đường duy nhất nối 2 đại dương , không bất ngờ nếu trong giai đoạn khủng hoảng chúng ta tìm thấy các lực lượng quân sự phải chốt chặn ở nơi hiểm yếu này nhưng tìm thấy một chiếc tàu ngầm nguyên vẹn trị giá 2 tỷ đô thì cũng thật lạ.

 

Tháo dỡ thiết bị lặn, tôi và Chris tìm đường lên khoan chỉ huy. Các thiết bị đều còn hoạt động tốt, vũ khí trên tàu bao gồm nhiều ngư lôi, tên lửa chống tàu Harpoon, đối đất Tomahawk và tên lửa phòng không đủ để đánh chặn một hạm đội hoặc tiểu đoàn.

 

Tất nhiên chúng tôi không thể lái con tàu này trở về vì 2 người không thể điều phối được chiếc tàu ngầm vài ngàn tấn này được, chúng tôi cũng không phóng tên lửa tiêu diệt bọn biệt kích Israel ở trên kia được vì việc giết chóc chỉ làm tình hình căng thẳng hơn và tôi biết lúc nữa bọn chúng cũng phải rút vì hết nhiên liệu

 

Tôi và Chris tìm đến phòng y tế băng bó và sát trùng vết thương,tôi nẹp lại cánh tay cho anh ấy, việc đảm bảo sức chiến đấu lúc này là tối quan trọng vì một cơn sốt vì nhiễm trùng có thể hạ gục tôi hoặc Chris dù chúng tôi giỏi đến đâu đi chăng nữa. 

 

Cũng chả rõ có đồ ăn hay không, tôi với Chris lấy mỗi người một bình truyền dịch cắm vào động mạch rồi ngủ thẳng cẳng đợi trời sáng.

 

Tôi bị đánh thức bởi tiếng kim loại va vào nhau, Chris đem từ kho quân nhu ra súng đạn và các loại trang thiết bị đặt lên chiếc bàn mổ trong phòng y tế. Tôi xem trên đồng hồ đã quá 8h sáng , giật sợi dây truyền dịch ra tôi đi tìm lương thực. 

 

Bước đi được vài bước tôi thấy khá khó thở vì không khí trong tàu ngầm khá ngột ngạt, lượng oxy có lẽ cũng đang cạn dần, kho lương thực của tàu còn khá nhiều đồ ăn đóng hộp nhưng hầu như đã hết hạn sử dụng, tôi qua phòng quân nhu thì mới lấy được một thùng đồ ăn MRE (Meal Ready to Eat) của lính biệt kích, đây là đồ ăn đem đi chiến đấu, được đóng trong từng bọc nhỏ, chỉ cần đổ nước vào là ăn được, có túi làm nóng riêng rất tiện lợi.

 

Tôi đem thùng đồ ăn về thả đó rồi cùng Chris chuẩn bị quân trang.

 

-Chúng ta phải làm gì bây giờ? Tôi hỏi

 

-Tôi đã liên lạc được với James, chúng ta cần đến Alexandria trước sáng mai

 

-Ông ấy biết âm mưu của Israel chứ?

 

-Đã biết nhưng không đánh động phía Israel được, Bọn Mossad báo cáo cho UN là máy bay chúng ta bị tiêu diệt, giờ ta sẽ phải đến Alexandria vì nếu máy bay bay đến đây chúng sẽ biết.

 

Alenxandria là một thành phố biển cách thành phố Cairo về phía tây bắc khoản hơn một trăm kilomet và cách kênh đào Suez khoản 400km, việc đi đến Alexandia cũng không dễ dàng vì chúng tôi gần như phải đi xuyên qua phía Bắc Ai Cập.

 

-Cách đây vài cây số có một trạm giám sát thuỷ lợi, James nói chúng ta có thể tìm thấy xe ở đó, nên phải nhanh lên.

 

Tôi phụ Chris một tay tra đạn vào khẩu MP7, mặc giáp kevlar cho anh ấy rồi mới chuẩn bị phần mình, vì tay Chris bị thương nên anh ấy không tiện thao tác cho lắm, cũng chỉ có thể cầm được súng tiểu liên hạng nhẹ thôi.

 

Đánh dấu toạ độ GPS lên bản đồ, đo khoản cách, tính toán thời gian di chuyển xong chúng tôi ăn no một bữa rồi kéo nhau trở lại silo.

 

Lựa 1 chiếc thuyền cao su kéo ra ngoài ống silo, bỏ trang thiết bị vào trong túi chống nước sau đó tôi bơi ra ngoài.

 

Giật giây thổi phồng, chiếc thuyền cao su nhanh chóng phồng lên, kéo chúng tôi lên trên mặt nước, đâu vào đó xong xuôi chúng tôi chạy về hạ lưu đến trạm quan trắc thuỷ lợi nằm bên cạnh kênh đào, quả thực ở có vài chiếc xe quân sự bán tải cũ, có lẽ do một toán lính nào đó làm nhiệm vụ bỏ lại.

 

Lựa 1 chiếc còn mới, tôi châm ít xăng vào và khởi động nhưng không nổ vì acquy đã hết điện, đã chuẩn bị trước nên tôi nối bình điện đem theo vào, khục khặc một hồi nó cũng nổ máy, thể là hai chúng tôi phi xe vào thẳng xa van bắc phi để lại xung quanh một đám bụi mù trời.

 

Khi con người biến mất dần đi cũng là khi thiên nhiên trỗi dậy mạnh mẽ, không còn tàn phá rừng, không còn cảnh giết hại động vật hoặc thu hẹp nguồn sống của chúng. Chúng tôi đi qua những cánh đồng cỏ bạt ngàn thú vật, hai bên sông Nile từng đàn chim bay rợp trời, những cảnh tượng mà tôi nghĩ sẽ không còn nhìn thấy nữa.

 

Mặt trời lên cao, giữa hoang mạc nhiệt độ đã lên hơn bốn mươi độ C, điều hoà trên xe đã hỏng từ lâu, từng cơn gió nóng cứ thổi thốc vào mặt. Thấy nhiệt độ động cơ lên cao, Chris bảo tôi tấp vào đâu đó để động cơ hạ nhiệt, nếu có hỏng hóc thì chúng tôi sẽ kẹt ở đây mất.

 

Chúng tôi đã đi được hơn 150km, đang trên một con đường nhựa nhưng đã bị thực vật cát đá xâm lấn hết mặt đường, tôi tìm một tán cây to mát rồi đỗ lại. Chris bật nắp capo xem xe xem có vấn đề gì không còn tôi kiểm tra toạ độ trên GPS, hiện giờ chúng tôi vẫn đúng lộ trình, giữa hoang mạc đầy cây bụi nên cũng chẳng có nguy hiểm gì đáng kể.

 

Vừa gấp lại tấm bản đồ và hớp ngụm nước thì Chris bảo tôi:

 

-Minh ! có động hướng 8h.

 

Tôi thò tay ra sau giương khẩu M416 lên mở khoá an toàn, quả thật trong đám cỏ trang cao đến ngực đang có một con vật lẩn khuất chưa rõ là con gì nhưng chắc chắn nó đang rình mò chúng tôi 

 

Chris lúc này cùng tôi đang thủ thế đằng sau chiếc xe nhưng tôi bỗng nghe tiếng cành cây gãy ngay sau lưng chứng tỏ chúng tôi đang bị tập hậu, quay ngoắt ra sau thì một con sư tử đực to lớn đang chờ chực phóng ra, nói đúng hơn là nó đang lấy đà phóng ra nhắm thẳng vào Chris vì có lẽ nghe mùi máu từ cánh tay của anh ấy.

 

Thói quen săn mồi của động vật lúc nào cũng chọn con mồi yếu nhất bầy để tăng tỉ lệ thành công nên không khó hiểu khi nó chọn Chris. Tôi là một người yêu động vật, tôi khẳng định như vậy nhưng giữa con sư tử đực to lớn kia và đồng đội tôi buộc phải bóp cò.

 

Một loạt đạn vang lên chấn động phá tan sự yên tĩnh của hoang mạc, bầy sư tử thất kinh hồn vía chạy tán loạn, tôi chủ động bắn trượt nên con sư tử kia cũng may mắn thoát chết.

 

Coi bộ nán lại nơi này cũng không ít phiền hà, tôi và Chris lại lên xe, tôi cầm lái suốt từ đầu vì Chris đang bị thương, cả 2 chúng tôi cũng không có nhiều chuyện để nói, có lẽ tính cách cả 2 là vậy nhưng chúng tôi thấy thoải mái với điều đó , chỉ nghe tiếng bánh xe nghiến lên cát đá trên đường là rõ mồn một.

 

Mới đi được vài phút thì tôi nhìn vào kiếng hậu, thấy một vệt bụi dài đang tiến lại gần, Chris thấy rõ sự biến dạng trên khuôn mặt tôi nên ngoái ra sau lấy ống nhòm quan sát, là 2 chiếc xe chở đầy lính đang đuổi theo, có lẽ chúng nghe tiếng súng nên từ đâu kéo đến.

 

Dù chúng có là ai đi chăng nữa dừng lại tiếp xúc hay đấu súng với chúng không phải là ý hay, tôi đạp ga làm chiếc xe phóng lên tuy nhiên trên đường có rất nhiều đất cát khiến cho chiếc xe chạy tốc độ cao rất dễ trật ra khỏi đường.

 

Chris trèo ra băng ghế sau, lấy khẩu MP7 ra lên đạn và đục vỡ kính chuẩn bị ứng chiến. Tôi thì căng mình để lái chiếc xe trốn thoát khỏi chúng.

 

Biết chúng tôi đã phát hiện và tăng tốc chạy trốn nên toán lính kia cũng đuổi theo quyết liệt.

 

-Anh có nhận dạng được chúng không? Tôi hỏi Chris

 

-Không nhưng rõ ràng chúng có vũ trang.

 

Tôi liếc nhìn thì thấy toán người này vận đồ ả rập màu trắng, có khăn choàng che mặt tay lăm lăm AK47 cách chúng tôi không xa nhưng cũng chẳng gần, khoản hai trăm mét.

 

Tôi nhớ theo bản đồ , từ chỗ dừng chân đi khoản mười kilomet cần rẽ phải , thấy cũng gần đến chỗ rẽ tôi đánh liều đánh một góc 45 độ phi vào khu xa van, chiếc xe nhảy thốc lên lao vào đám cỏ cây ven đường ai ngờ mặt đất ghồ ghề, chiếc xa giằng sóc với tốc độ khoản 80km khiến cho tôi với Chris bị lắc không khác gì xí ngầu.

 

-Cậu có đi đúng đường không đấy! Chris gào lên

 

-Đúng!

 

Tôi vừa dứt lời thì chiếc xe lao vọt qua con đường trước mặt, hoá ra nó gần hơn tôi nghĩ, đảo lái vài vòng tôi quay lại đường nhựa, Chris vỗ vai tôi báo đã cắt đuôi được bọn chúng, tôi nhìn qua kính hậu thì đúng thế thật.

 

Thở dài một cái vì tai qua nạn khỏi thì phía trước hai chiếc xe đã chặn ngang đường, bọn người kia súng ống sẵn sàng đón lõng chúng tôi, một tên còn cầm tên lửa chống tăng B44.

 

Án chừng không dừng xe sẽ ăn nguyên quả tên lửa nên tôi nhấn phanh làm chiếc xe trượt một đường dài rồi dừng ngang đường cách bọn chúng khoản 40 mét.

 

Toán người kia thấy chúng tôi dừng lại nên cũng không vội nổ súng, tôi đẩy cửa bước ra giơ 1 tay lên, 1 tay vẫn nắm vào bán súng tỏ thiện chí không muốn dùng vũ lực.

 

Một tên có lẽ cầm đầu thét lên vài câu bằng tiếng Ai cập gì đó không rõ nhưng chắc chắn là bỏ súng xuống. Tất nhiên là tôi giá điếc không hiểu

 

-English please! no Egyptian! (Làm ơn nói tiếng Anh tôi không hiểu tiếng Ai Cập)

 

Một tên trong đám đó đáp lại

 

-Gun Down (Bỏ súng xuống)

 

Thế là bọn chúng nói tiếng Anh với tôi, không giả điếc được nữa

 

-Don't shoot ok? (Nhưng đừng bắn nhé) tôi nói với lại

 

Hắn nói OK!

 

Tôi nhìn Chris, có vẻ cũng không còn cách nào khác, hai chúng tôi thả súng xuống đất, tôi thò tay vào túi ngực lấy phù hiệu quân Liên Hợp Quốc ra dán lên bả vai trong khi 4 đứa trong số chúng đang tiến lại gần.

 

Chris đang nghĩ gì tôi biết rõ, anh ấy đang đợi bọn chúng tiến lại còn khoản 5 mét sau đó rút súng lục sau thắt lưng ra bắn hạ hai tên, lúc đó tôi cũng đã kịp khống chế tên đi đầu, kéo hắn lên xe làm con tin sau đó dông thẳng, khi chúng đến gần thì mấy tên lính đứng sau không thể nã tên lửa B41 vào chúng tôi được.

 

Nhưng chúng càng đến gần tôi mới thấy rõ, ẩn sau bộ đồ kia chỉ toàn là thường dân không phải quân chuyên nghiệp, từ cách chúng cầm AK đến đôi chân mang dép cao su thế kia chắc chắn không phải là dân chiến trường.

 

Tôi đưa tay ra sau làm dấu bảo Chris không sao, có lẽ anh ấy cũng thấy đây chỉ là thường dân có vũ trang nên bỏ qua ý định kia đi.

 

Mấy người này đến gần xong sử dụng vốn tiếng anh ít ỏi của họ để trao đổi với chúng tôi, hỏi chúng tôi từ đâu, đến đây làm gì . Tôi khua chân múa tay một hồi giải thích là lính liên hiệp quốc đi làm nhiệm vụ họ mới hiểu, tất nhiên là bọn họ cũng cãi vã nhau, 1 số có lẽ đòi giết quách chúng tôi đi, một số bảo không cần thiết.

 

Trong lúc chúng đang tranh cãi thì tôi lấy 1 phần đồ ăn ra đưa cho họ tỏ thiện ý không muốn gây rắc rối, đồng thời chỉ vào bộ đàm bảo nếu mà giết chúng tôi máy bay sẽ tới ném bom. Bọn họ ngại ngần một hồi cũng quyết định để chúng tôi đi.

 

Tôi và Chris thở phào bước lên xe, bọn họ dọn đường cho chúng tôi qua. Trời dần về chiều, mặt trời đỏ rực soi những tia nắng cuối cùng rồi tắt hẳn, tôi tiếp tục lái xe đi trong đầu suy nghĩ bâng quơ.

 

Dừng chân ở một thị trấn nhỏ trên đường chúng tôi nghỉ ngơi ăn uống, tôi đi lang thang ra ngoài lượm ít củi về nhóm lửa. Các túi đồ ăn MRE có sẵn gói hoá chất hâm nóng, chỉ cần đổ ít nước vào đồ ăn sẽ nóng sốt như mới nấu nhưng với những kẻ như chúng tôi, lửa không chỉ có nghĩa là nấu nướng.

 

Ở một thế giới chết chóc, tăm tối , một chút ánh sáng, một chút hơi ấm có ý nghĩa về tinh thần nhiều hơn, nó mang hy vọng và quan trọng nhất là chúng tôi cảm thấy chúng tôi còn sống, đó mới là điều quan trọng.

 

Giúp Chris khui gói bánh quy trong khẩu phần , anh ta cắn một miếng rồi nói:

 

-Này! cậu biệt gì không?

 

-Chỉ có 2 người chúng ta, tay cậu thì thế kia.

 

-Nhưng không phải là không được.

 

-Nhưng không phải là được.

 

-James sẽ nổi điên lên, tôi nghĩ ông ấy sẽ đỏ mặt tím tai nhưng không đem được Johnny về ông ấy còn điên hơn nữa

 

Tôi nhấp thêm hợp nước, xách 2 túi đồ quăng lên thúng xe rồi lại lên đường. Xuyên màn đêm chúng tôi đến điểm hẹn ở ngoại vi Alenxandria lúc một giờ sáng, tranh thủ ngủ thêm, đến hừng đông đã nghe tiếng trực thăng đến gần.

 

Hai chiếc trực thăng AH-60 Black hawk lượn một vòng rồi đáp xuống, đón chúng tôi ở cửa là Mac:
  
  

 

-Wings?

 

-Wings hy sinh rồi! Tôi chua chát đáp

 

-Khốn khiếp! Mac gào lên!

 

-Chúng tôi cần quay lại. tôi nói.

 

-James bảo tôi mang 2 cậu về.

 

-Bên Israel báo chúng tôi đã mất tích nên chúng tôi có thể quay lại đó đem Johnny ra, Chris nói.

 

-Không thể được, chỉ có 2 người bọn cậu! 

 

-Anh biết chúng giữ Johnny ở đâu chứ?Chris tiếp lời.

 

-Vệ tinh chúng ta thấy máy bay của chúng đáp xuống một thành phố nhỏ ở nam Israel tên là Ashkelon, cách dải Gaza không xa.

 

Tôi và Chris vỗ vai Mac rồi leo lên máy bay còn anh ta không thôi lầm bầm về chuyện sẽ bị James lột lon.

 

Chúng tôi gọi về xin thêm hình ảnh vệ tinh và tin tình báo ở Ashkelon, có khả năng chúng đang giữ Johnny ở một pháo đài cổ ven biển.Trong suốt 3 giờ đồng hồ trên máy bay nhân viên y tế chữa lại cánh tay cho Chris, hoá ra cũng không nặng lắm, đồng thời chúng tôi lên một kế hoạch hoàn chỉnh để đột kích và cứu Johnny ra, đích thân Johnny đã mở miệng nói hắn có thể chế ra vaxcin nên việc giải cứu hẳn cũng chỉ là cách cuối cùng để chúng tôi thoát ra khỏi mớ hỗn độn này.

 

-Palestin sẽ hỗ trợ chúng ta! Mac báo sau một cuộc điện đàm đi đâu đó không rõ

 

-Palestin? tôi ngạc nhiên hỏi.

 

-Chính xác hơn là Hamas từ dãy Gaza sẽ yểm trợ các cậu

 

-Tốt! Chris thốt lên.

 

Vùng đất của Israel là một vùng hỗn độn, trong đó có nhiều vùng bị kiểm soát bởi 2 chính quyền là Do Thái của Israel và Ả Rập của Palestin, xung đột của hai chính quyền này đã kéo dài nhiều năm mà chưa có giải pháp nào triệt để nhưng có thể nói người Palestin luôn bị đàn áp bởi Israel. Ngoài ra còn có một lực lượng người Palestin không chấp nhận hoà hoãn mà dùng vũ lực là Hamas ở dãy Gaza, họ đã phản kháng lại Israel trong nhiều năm liền và bằng cách nào đó Mac đã đề nghị họ hỗ trợ cho chúng tôi.

 

Ashkelon chỉ cách Gaza hơn hai Kilomet nên chúng tôi đáp xuống Gaza sau đó sẽ đột kích vào Ashkelon sau.

 

Đón chúng tôi là một chỉ huy Hamas tên Amir, họ đã chuẩn bị sẵn một toán lính chừng hai tiểu đội để đi với chúng tôi, nhanh chóng thay đồ chúng tôi trao đổi kế hoạch với họ.

 

Cả toán sẽ di chuyển bằng đường hầm đào xuyên biên giới Gaza - Palestin đến một địa điểm cách pháo đài chừng một cây số. Trước lúc chúng tôi tấn công quân Hamas sẽ cho bắn tên lửa về thành phố để phân tán chủ lực của Israel bắt chúng dồn lực lượng về biên giới để chúng tôi dễ bề tấn công. Đường lui sẽ bằng xuống cao tốc ở cảng biển.

 

Kế hoạch đã ổn, từ biệt Mac chúng tôi tiếp tục nghỉ ngơi chờ màn đêm đến. Nếu các bạn đang nghĩ toán lính Hamas này là một nhóm ô hợp mặc xà rông màu trắng, quấn khăn rằng, bịt mặt, cầm AK-47 như ISIS thi tôi xin phép báo là bạn đã nhầm to.

 

Quân Hamas được trang bị không khác gì biệt kích seal của Mỹ, vận đồng phục đen như như số phận của tôi, trang bị đầy đủ từ AK-103 của Nga đến súng chống tăng cá nhân , tất cả đều được trang bị kính nhìn đêm, bộ đàm nhét tai và huấn luyện kỹ lưỡng vì họ từ bé đã được thui rèn từ bom đạn của Israel và quan trọng nhất đây là những chiến binh từ vị đạo, ở dưới cổ chân họ là nửa kí TNT đề phòng bị bắt.

 

Amir giới thiệu chúng tôi với tên các trưởng toán nhưng chúng tôi không thể phát âm nổi nên quyết định gọi họ bằng số cho nó nhanh.

 

Đến giờ G, chúng tôi lên xe bán tải để cửa đường hầm, con đường hầm này dài hơn cây số và khá nhỏ, chỉ vừa một người đi, cấu tạo ở đây là đất pha cát nên họ dùng rất nhiều cây gỗ đề chống, đi đến đâu đất cát rơi đến đấy có vẻ sụp khi nào không hay.. Chúng tôi chưa đến nơi đã nghe tiếng phi pháo của Hamas rót vào thành phố rền vang.

 

Đội nắp hầm chui ra chúng tôi di chuyển dọc bờ biển vài trăm mét nữa là đến pháo đài cổ. Pháo đài này không lớn lắm, gọi là pháo đài vì nó nằm ngoài một vách đá ven biển, xung quanh vẫn còn những dãy tường đá cũ cao năm bảy mét còn bên trong hầu hết là các dãy nhà hai ba tầng đã được xây mới. Tôi dùng ống nhòm quan sát thấy trực thăng và nhiều phương tiện bên trong pháo đài nên chắc chắn là Johnny bị giữ ở đây.

 

Chúng tôi di chuyển chậm rãi đến vách đá dưới chân pháo đài mà không khó khăn gì mấy, bầy trời vẫn sáng rực và rền vàng lên bởi những vụ nổ của phi pháo Hamas và tên lửa đánh chặn Iron doom của Israel.

 

Chúng tôi dùng dây trèo lên và ếm quân dọc theo tường thành, Amir gọi pháo bắn thẳng vào bãi đáp trực thăng và sân pháo đài làm cho lính lác nấp hết vào trong. Tranh thủ thời cơ chúng tôi đột nhập vào trong sân.

 

Trong pháo đài ngoài những tháp canh còn có một thánh đường cũ được dùng làm kho và 3 dãy nhà hình chữ U, giữa sân là bãi đáp trực thăng và xe quân sự vừa trúng đạn đang cháy ầm ầm.

 

Loạt pháo vừa thôi, bọn lính Israel chạy ra kéo vòi chữa cháy dập lửa chẳng mảy may biết chúng tôi đã phục kích sắn. lính bắn tỉa hạ gọn mấy tên trong tháp canh xong thì chúng tôi tung lựu đạn ra sau đó bắn xối xả từ hướng thánh đường, bị tấn công bất ngờ nên nhóm lính bên ngoài bị tiêu diệt sạch không còn 1 mống.

 

Lũ lính bên trong nghe tiếng súng nổ đã biết bị tấn công nên thò súng ra từ cửa sổ bán dữ dội, 1 cậu lính Hamas đem tên lửa vác vai ra định thổi tung cả căn phòng thì Chris ngăn lại vì chúng tôi chưa biết Johnny đang bị giữ ở đâu.

 

Nhóm bắn tỉa của Hamas đã lấy được tháp canh nên bắn chéo góc qua hạ mấy tên trong dãy nhà, chúng tôi bắt đầu tràn vào càn quét từng dãy nhà một. Toán tiên phong vừa xô cửa vào thì bị lính Israel bên trong phục kích bắn dội ngược ra ngoài, một người trúng đạn nằm lại bị chúng bắn nát như tương.

 

Tôi thò đầu vào quan sát cũng bị chúng bắn tối tăm mặt mày, rút chốt hai quả lựu đạn tôi ném vào, thấy quả thứ 1 bọn chúng liền rút vào trong các căn phòng, vừa nổ xong sợ chúng tôi tràn vào nên thò ra bắn tiếp nên trúng quả thứ hai, ôm bụng máu nằm vật ra.

 

Tràn vào trong kiểm tra các căn phòng không thấy Johnny nên phải tiếp tục tiến công , , một vài tên nữa kìm chúng tôi lại ở cầu thang dẫn lên lầu 2. Lần này tôi ra dấu bảo mang tên lửa vác vai ra thổi vào làm cho toà nhà bị thủng một lỗ lớn bằng chiếc oto.

 

Tiếp tục tràn lên trên vẫn chưa tìm thấy mục tiêu trong khi Amir báo lính Israel ở Biên Giới đang quay lại nên phải đẩy nhanh lên.

 

Chúng tôi thấy thời gian không còn nhiều trong khi còn đến 2 dãy nhà nên chia làm 2, Amir dẫn theo 1 tiểu đội còn tôi và Chris dẫn 1 tiểu đội khác đánh chiếm các dãy nhà còn lại. Rút kinh nghiệm việc bị phục kích ở bên trong tôi ra dấu bảo mọi người bắn cầm chân ở dưới còn mình và Chris leo thẳng lên cửa sổ lầu 2 đánh xuống. Tôi ném lựu đạn khói vào sau đó đùn đầy nhau trèo thẳng lên lầu hai trong khi phía dưới vẫn bắn nhau dữ dội, quân hamas ngoài tháp canh thấy chúng tôi đang trèo lên thì lấy đại liên trên tháp canh quét ngang dọc không cho lính Israel trong toà nhà trồi lên quan sát.

 

Tôi vừa nhảy vào trong cửa sổ không biết chúng nó bắn bừa hay thế nào nên dính một loạt đạn 2 viên ngay vai trái, trong khói mù thằng nào bắn trước thằng đó thiệt vì thấy lửa đầu nóng loé lên nên tôi quét hết cả băng AK vào vị trí của địch, hắn đổ vật xuống ngay lập tức.

 

Chris lúc này đã lên đến nới, tôi rút vội miếng gạc ra nhét vào hai lỗ đạn sau đó đánh tiếp, chúng tôi thò đầu ra thấy dãy hành lang đã trống nhưng còn đến 3 phòng cần kiểm tra, ném nốt một quả lựu đạn khói ra hành lang, chúng tôi bắt đầu kiểm tra từng phòng một.

 

Tôi vừa định đạp cửa vào căn phòng kế bên thì một loạt đạn nổ lên bắn xuyên cửa, hắn chỉ cần chậm tí nữa thì tôi đã hứng cả băng đạn. Chris rút lựu đạn thảy vào cái lỗ vừa bắn làm tên lính bên trong hoản quá phi ra khỏi cửa sổ nghe choảng một cái.

 

Tôi lần này đạp cửa xông vào thật thì thấy căn phòng trống trơn, bắt đầu sốt ruột vì không lâu nữa quân tiếp viện sẽ đến. Ở phía dưới có lẽ cũng đã dọn dẹp xong vì tiếng súng đã ngớt

 

-Kiểm tra căn phòng cuối cùng bên trái lầu 2, có đường ống nước dưới này! Đội phía dưới báo lên cho chúng tôi.

 

Bất cứ phòng giam giữ nào cũng đều phải có lỗ thoát nước, tù nhân thường bị “vãi đái” ra khi bị tra tấn hoặc cần lau dọn máu me, nên để tìm phòng giam giữ cứ lần theo đường ống nước là thấy.

 

Tôi với Chris lò dò xuyên qua làn khói đang dần tan, toán Hamas ở dưới cũng đã lên đến nơi. Qủa không sai, cửa căn phòng này làm bằng thép. Gắn 2 tấm mìn phá cửa , kích nổ xong chúng tôi xông vào.

 

Trong màn khói đang tan dần Leon đang ngồi thong thả trên ghế cầm súng chĩa vào đầu của Johnny, thật tội cho thằng cha Johnny này, có lẽ mấy ngày hôm này bị tra tấn nên nhìn tả tơi, đang quỳ dưới đất, mặt cắt không còn hột máu.

 

-Xong rồi! Trả hắn lại cho bọn tao. Chris lên tiếng

 

-Mày biết là tao không làm vậy được.

 

-Mày không còn lựa chọn nào khác, hoặc là tất cả đều sống sót ra khỏi đây hoặc là chỉ chúng tao! Tôi nói với hắn

 

-Ha! ha! Leon cười lớn. Ok! chúng mày nghĩ với 2 tiểu đội lính Hamas là có thể tiến đánh một tiền đồn bị dội pháo 365 ngày 1 năm và Mossad tụi tao ngu đến độ giữ nhân vật giá trị ở một nơi cách địch quân chỉ vài cây số? 

 

Leon vừa dứt lời tôi chỉ nghe toanh 1 cái, khẩu súng trên tay bị 1 lực cực mạnh phang vào gãy làm đôi rớt xuống đất. Là lính bắn tỉa.

 

Cả toán đã biết chuyện gì xảy ra nên lui lại vài bước kiếm chỗ khuất, Leon phẩy tay báo tên lính bắn tỉa bên ngoài ngừng bắn rồi tiếp lời.

 

-Mày là thuốc giải, mày là câu trả lời cho tất cả, chúng tao cần mày và tao biết mày sẽ tự dẫn xác đến đây!

 

Hắn chưa dứt lời tôi đã nghe tiếng phi đội máy bay kéo đến ầm trời, tiếng súng bên ngoài nổ lên như ran, bộ đàm cũng vang lên liên hồi báo hiệu bị tấn công, hóa ra là Mossad đã phục kích chúng tôi từ lâu, chúng tôi quả thật quá hấp tấp nên sơ hở, không ngờ lọt vào bẫy của chúng.

 

Thấy tình thế bất lợi, chắc chắn chúng sẽ giết Chris sau đó bắt tôi, tôi liền lui lại lấy thân che tầm bắn cho Chris rồi nói nhỏ:

 

-Hắn cần tôi nên anh phải lấy tôi làm con tin rồi thoát khỏi đây, tôi không chết được anh nhớ chứ! tôi nói nhỏ với Chris.

 

Thấy chúng tôi đang toan tính gì, Leon liền đanh giọng:

 

-Hạ súng xuống tất cả sẽ có một con đường sống!

 

Tiếng súng phía dưới cũng vang lên dữ dội, quân tiếp viện của Mossad đang tiến dần lên, rồi bỗng nhiên một tiếng nổ long trời lở đất vang lên, có ai đó bên Hamas đã đánh bom cảm tử làm cho cả toà nhà rung chuyển, tường mái nứt ra, khói bụi ở dưới xông lên mù mịt, tai chúng tôi thì ù đi chân đứng không còn vững.

 

Chớp thời cơ chúng tôi nổ súng, tôi rút súng lục ra bắn thẳng vào đầu Leon làm cho óc hắn văng ra sau nhưng xui thay hắn đã kịp bóp cò bắn xuyên hốc vai của Johnny xuống đến ngực.

 

Chris tức khí bắn bồi thêm vài phát vào ngực làm cho cái xác của Leon bật ngửa ra sau rồi xông đến kiểm tra Johnny, vừa bước được 2 bước lập tức bị trúng đạn bắn tỉa đổ gục. 

 

Mọi chuyện diễn ra quá nhanh! tôi lao đến chỗ nấp gần nhất sau đó bò ra kéo Chris lại nhưng không kịp nữa, a ta đã tắt mạch, chỗ Johnny máu trào ra không ngừng, mắt cũng đã trợn trừng lên chứng tỏ không còn sống.

 

Tôi móc vội quả lựu đạn khói ném ra, lượm súng của Chris rồi ra hiệu cho cậu lính còn lại tìm đường thoát thân. Quả bom cảm tử nổ làm sập một góc toà nhà, tôi nhảy xuống đống đổ nát lập tức bị đèn pha từ trực thăng chiều tới bắn túi bụi.

 

Nấp vội vào một mảnh tường vỡ nghe ngóng, tiếng súng đã tắt hẳn chỉ nghe thấy tiếng trực thăng quần thảo trên đầu chứng tỏ lực lượng Hamas đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Cậu lính Hamas còn sống không giấu được nỗi tuyệt vọng trong đôi mắt, mồ hôi ướt đẫm từ trên xuống dưới.

 

Tôi nhăm nghiền mắt suy nghĩ tìm đường thoát thân nhưng chưa kịp nghĩ ra gì thì một loạt đạn lại vang lên bắn sát rạt buộc chúng tôi phải di chuyển.

 

Quân Israel tràn vào tầng tầng lớp lớp đến cả trăm tên nhưng biết chắc chúng tôi có bom cảm tử nên chúng không sáp lại, chúng bắt loa gọi chúng tôi ra hàng nhưng chúng tôi không trả lời, để áp chế tinh thần chúng bật đèn laser gắn trên súng rọi khắp nơi, ý báo cứ di chuyển sẽ ăn đạn.

 

Tôi liếc vội thấy góc toà thánh đường bên cạnh không có địch, ra dấu cho câu lính ném lựu đạn khói ra, tôi thò đầu quét một loạt đạn để cậu ấy tranh thủ chạy trước. Địch bất ngờ bị bắn trả nên một số cúi rạp xuống, 1 số bắn hú hoạ vào chỗ tôi làm cho bê tông cốt thép bung bét cả ra, khói bụi mù mịt. Không biệt cậu lính kia thoát được chưa, tôi vung nốt loạt đạn rồi cũng tìm đường chạy lẫn vào đám khói bị xuyên qua bởi hàng chục tia laser màu đỏ như tấm lưới tử thần, tôi lấy hết sức bình sinh phóng qua nhưng tiếng đạn nhanh chóng nổ ra.

 

Tôi ăn 2 phát đạn vào người và chân, rướng thêm được một vài bước tôi ngã xuống đất. Viên đạn trúng ngay bắp đùi làm tôi không di chuyển được nữa.

 

Trong đám khói mịt mờ tôi mò đến nút kích hoạt bom rồi nén đau nằm chờ, khói tan dần, thi thể cậu lính khi nãy nằm cách tôi chỉ vài bước. Lính Israel tràn đến, tiếng giày boost nện trên nền sân mỗi lúc một rõ, tôi cũng chắn suy nghĩ nhiều bấm nút kích nổ boom trên người mình.

 

Trong một phần vạn giây tôi chẳng kịp thấy gì nhiều chỉ thấy một màu đen thăm thẳm, thăm thẳm....!

 

Giật mình bật dậy làm cho chiếc thành giường va vào tường, mồ hôi vã ra như tắm.

 

-Địt mẹ! để cho bố mày ngủ!

 

Giọng thằng Hoàng ở giường dưới vang lên, tôi nuốt nước bọt cái ực, ánh đèn vàng leo lét bên ngoài hành lang hắt vào căn buồng lay lắt, Christ và Wings đang ngủ giường bên kia.

 

Tôi mò lấy chiếc đồng hồ dưới gối, mới 4 giờ sáng, tất cả chỉ là mơ sao? Nuốt nước bọt cái ực tôi, trèo xuống giường đi dọc theo hành lan ra căn tin không có bóng người. Trên quầy đồ ăn để vài chiếc bánh kẹp sanwich cùng mấy bình nước cho lính trực đêm lót dạ, tôi rót một ly đầy rồi uống cho đã khát ăn một chiếc bánh ngấu nghiến rồi sững lại suy nghĩ.

 

Tôi còn không chắc chắn vừa rồi là mơ, lấy tay miết xuống đùi không thấy lỗ đạn hay vết sẹo tôi mới biết đây là thực tại. Chúng tôi chỉ mới vừa trở về từ Alaska chiều nay, cuộc họp ở Khu 51 Nevada, Jerusalem, kim tự tháp, ISIS , Pharaoh ,Leon, Jake, Mossad, Hamas, tất cả chỉ là mơ, trong cuộc chiến với con quái dị biến dưới lòng sông cơ thể tôi bị mất nhiệt độ đột ngột dẫn đến shock nhiệt nên vừa đáp xuống Seattle là ngất đi luôn.

 

Đang ngồi suy nghĩ thẩn thờ thì có 2 cậu lính hết ca gác vào lấy đồ ăn xong nhâm nhi, rồi trò chuyện bên cạnh, sau một hồi bần thần tôi lững thững trở về giường ngủ, nằm trăn trở một hồi lâu vẫn không ngủ được. Tôi thấy bản thân đang có vấn đề nghiêm trọng,tôi ngủ rất ít, thỉnh thoảng tôi còn bị thêm những cơn đau đầu như búa bổ, những lúc kích thích thể thể lực sung mãng tột độ nhưng cũng có những lúc cơ thể rệu rã không muốn làm gì cả, virus Vancourver vẫn đang còn trong người tôi nên sức khoẻ chắc chắn không thể ổn định, tuy nhiên điều tôi e sợ nhất là sẽ mất đi thần trí.

 

Trời trở sáng, mọi người thấy thần sắc tôi thất thường nên bảo tôi đến gặp Fisher để kiểm tra sức khoẻ. Fisher kiểm tra một hồi lâu cũng chẳng ra bệnh gì nên tôi trở về phòng sinh hoạt với mọi người.

 

Mac và Fisher chiều nay sẽ bay đi báo cáo nhiệm vụ với James và hội đồng Bảo An, nhóm chúng tôi còn lại tạm thời được bố trí tạm đóng quân ở đây. Việc quân thường hay gấp rút nhưng không phải lúc nào cũng vậy, toán ô hợp bọn tôi sau nhiệm vụ vào sinh ra tử được tạm cho nghỉ ngơi hồi sức.

 

Căn cứ này nằm ngay trong sân bay Tacoma ở nội vi thành phố Seattle, nước Mỹ là một trong những nước thiệt hại nặng do là một trong những nơi phát ra đại dịch tuy nhiên với nguồn dự trữ khổng lồ về tài nguyên, khí tài quân sự họ vẫn là đầu tàu trong cuộc chiến này. Thành phố này cũng không khác Sài Gòn là mấy, sau mấy năm mọi thức đã hoang hoá đổ vỡ dần, thực vật xâm lấn. Căn cứ được bảo vệ bởi nhiều lớp hàng rào thép bọc quanh sân bay, thây xác cao đến phần nửa vì trong thành phố vẫn còn nhiều rab.

 

Chúng tôi ở lại đây cả tuần ngoài ăn ngủ, tập thể lực cũng chả có gì làm bắt đầu chán dần. Có 2 việc các bạn sẽ thắc mắc là những lúc như thế này mạng internet và điện thoại có sử dụng được không? Câu trả lời là không, mạng internet là hạ tầng của nhiều công ty, quốc gia cấu tạo thành và những lúc như thế này mạng internet không còn dùng được bởi hạ tầng hầu hết đã hư hỏng thay vào đó là những mạng nhỏ hơn nội bộ của các quốc gia, chính phủ, quân đội chỉ dùng cho công việc gọi là intranet. Mạng viễn thông cũng vậy vả lại khó khăn trong nguồn điện nên điện thoại cũng trở thành những cục nhựa vô dụng thành thử cuộc sống giải trí của những người còn sống rất buồn chán.

 

Việc tụt giảm mạnh dân số lại làm cho những mối nguy trước đây như sự ấm lên của trái đất, ô nhiễm môi trường, phá rừng và xâm hại môi trường sống của động vật không còn nữa, trái đất như thật sự hồi sinh nhưng khác với xác sống, lũ rab là loại có thể sinh tồn được, chúng có thể tuỳ biến cơ thể, thích nghi với từng môi trường đặc thù, thậm chí là sinh sản nên nếu chúng có đủ nguồn thức ăn chúng sẽ trở thành chủ nhân mới của hành tinh này.Hiện tại các quốc gia và lực lượng quân đội cần nhanh chóng tiễu trừ tiêu diệt càng nhiều rab càng tốt trước khi chúng phát triển và thích ứng được hoàn toàn.

 

Cơn mê hôm trước cứ bám lấy tôi mãi, tôi cảm thấy nó rất thật, từng chi tiết một và biết đâu Johnny Cooper người tạo ra virus Vancouver là mấu chốt của tất cả vấn đề và cũng chính là câu trả lời để kết thúc đại dịch này. Tôi giành nhiều ngày lục tung tất cả dữ liệu mà UN có được về Johnny và Vancouver nhưng hắn đã lắn mất tăm mất tích từ lâu, không phải UN và các điều tra viên khác không biết vấn đề này nên họ đã điều tra hắn ngay từ đầu nhưng hắn đã mất tích từ lâu, nhiều kết luận cho rằng Johnny có dính dáng đến Trung Quốc nhưng hầu như không có bằng chứng gì nhiều.

 

Về Vancouver là biến thể của HIV nên nó mang những đặc tính vô phương cứu chữa như HIV trước đây, dễ lây lan, thâm nhập sâu vào tế bào và miễn nhiễm với mọi loại kháng thể, từ từ biến đổi vật chủ cho đến khi chết đi. Bơi trong đống tài liệu thu thập được của UN tôi thấy một ngõ cụt mà điều tra viên tên Kenedy đã nêu ra nhưng bị bỏ ngỏ đó là nghiên cứu của Johnny Cooper được tài trợ bởi một công ty Dược đa quốc gia là Kantas Medicals, công ty này trụ sở ở California Mỹ nhưng vốn đầu tư hầu hết từ các quỹ đầu tư từ Đông Âu, họ có nhiều cơ sở nghiên cứu thí nghiệm từ Châu Á, Châu Phi vì luật thí nghiệm trên người ở các nước phát triển là rất nghiêm ngặt.

 

Điều tra viên nêu rõ cứ hàng tuần chuyên cơ riêng của Kantas Medicals đều di chuyển giữa các điểm nghiên cứu và trụ sở chính, họ đã đột kích và điều tra nhưng tại các cơ sở này không phát hiện gì nhiều, việc điều tra của UN kết thúc ở đây.

 

Tôi xem xét đường bay của chuyên cơ thì phát hiện rằng chúng xuất phát từ Châu Á, máy bay của Kantas không bay xuyên Bắc Thái Bình Dường mà bay vòng qua Siberia, Alaska dừng tiếp dầu tại một thành phố ở Canada trước khi dừng lại hoàn toàn ở California.

 

Và thành phố đó tên là Vancouver cách căn cứ Seatlle chỉ 123 dặm về phía Bắc. Tôi linh tính thấy có một manh mối đã bị bỏ lỡ ở đây, dữ liệu chuyến bay không có gì nhiều, tôi quay lại điều tra về Kantas thì thấy họ không có công ty con hay chi nhánh ở đây nhưng hàng tháng đều có những khoản thành toán cho một công ty cung cấp vật liệu y tế ở Vancouver, tôi đào sâu vào các khoản thanh toán thì hầu hết là mua dụng cụ rẻ tiền như kiêm tiêm, ống nghiệm nhưng với giá cắt cổ.

 

$500 cho một chiếc ống nghiệm, $160 cho một chiếc khấu trang y tế, $240 cho một đôi găng tay y tế, mức giá gấp vài trăm lần này chẳng qua chỉ là để hợp thức hoá cho khoản thanh toán hàng triệu Dollar mỗi tháng của Kantas cho một công ty ma ở Vancouver.

 

Tôi không dừng ở đó tiếp tục đào sâu hơn nữa thì thấy các khoản thanh toán này bắt đầu sau khi Johnny về làm việc cho Kantas, Johnny đúng là có quê nhà ở Vancouver nên mới đặt tên virus như vậy nhưng xem lịch trình làm việc hoặc báo cáo làm việc của hắn thì hoàn toàn ngược lại, ngày trong tuần hắn ở Vancouver ngày cuối tuần lại về California, nếu trụ sở của Kantas ở California thì lịch làm việc của hắn phải ngược lại mới phải. Từ tất cả các manh mối trên tôi đủ bằng chứng để cho rằng Kantas Medical có một cơ sở nghiên cứu bí mật ở Vancouver và đây là mấu chốt mà UN đã bỏ sót.

BÌNH LUẬN