Logo
Trang chủ

Chương 374: Điềm báo

 Trong cơn mưa này ẩn chứa tà khí âm trầm không bình thường, bị Trần Bình An dùng mấy câu vạch trần. Nhưng mấu chốt khiến hai nhóm hào môn giang hồ ngừng gây chiến, không phải đạo lý đường đi không hẹp gì đó của Trần Bình An, cũng không phải bùa khêu đèn Trần Bình An lấy ra, mà là vì một câu nói: “Các thần tiên của Kim Quế quán vẫn chưa ra tay.”

Như vậy nghĩa là Kim Quế quán muốn lập kế hoạch chu đáo sau đó mới hành động, giả vờ yếu thế, dẫn rắn rời hang. Hoặc là không có sức kháng địch, chỉ có thể co cụm trong đạo quán, tránh né mũi nhọn.

Dù là nguyên nhân nào, đây vẫn là thần tiên trên núi đánh nhau. Cho dù có một chút tình nghĩa, đám nữ nhân đến từ nhà Yên Chi nước Vân Tiêu, cũng không muốn đặt cược tính mạng can dự vào.

Còn lão ma đầu Trúc Phụng Tiên từng gây nên gió tanh mưa máu trên giang hồ mấy nước, càng là hạng người lão luyện thành thục. Lần này lên núi là vì bắc thang tu đạo cho cháu gái, Kim Quế quán có thể thuận tiện thu nhận một đệ tử đắc ý, hai bên đều có lợi. Bang Đại Trạch không thấp hơn người khác một cái đầu, Trúc Phụng Tiên cũng không muốn làm đầy tớ cho đạo nhân Kim Quế quán.

Trần Bình An trở về chỗ cũ. Bùi Tiền lanh lợi không biết từ đâu lôi ra một phiến đá nhỏ, dùng làm ghế ngồi cho Trần Bình An. Cô bé ngồi xổm dưới đất, vừa dùng tay lau đất trên phiến đá nhỏ, vừa ngẩng đầu an ủi:
- Sư phụ, ngài vẫn rất có phong phạm, chỉ là giai đoạn thu quan có một chút khiếm khuyết, cũng không đáng kể.

Cách nói thu quan (giai đoạn giao tranh với quy mô nhỏ trong một trận cờ vây), là do Bùi Tiền thường ở bên cạnh quan sát Lư Bạch Tượng đánh cờ với người khác, đã nghe quen tai nhìn quen mắt.

Sớm chiều chung sống với bốn người trong tranh cuộn, Bùi Tiền đã học được không ít thứ. Chẳng hạn như binh pháp chiến trận của lão Ngụy, “chém giết sa trường, không được xếp thành một hàng hay trận thế ngoằn nghèo, mà cần hàng ngũ ổn định, ngang dọc ngay ngắn, cuối cùng dựa vào bản lĩnh của từng người, loạn đao chém giết”.

Cô còn học được một số quy củ cầm kỳ từ Tiểu Bạch, học với Chu Liễm mấy cách làm thức ăn nhắm rượu. Chu Liễm thấy Bùi Tiền thường tới giúp đỡ, cũng xem như cực khổ, bèn tặng cô bé một quyển tiểu thuyết du hiệp giang hồ, Bùi Tiền xem đến quên ăn quên ngủ. Cô còn xin Tùy Hữu Biên chỉ bảo rất nhiều tiếng lóng khi hành tẩu giang hồ, chẳng hạn như “muốn đi qua nơi này, để lại tiền mua mạng”, “đạo tặc to gan dám chặn đường cướp của, ăn một thương của ta”.

Lúc này Trương Sơn Phong nhìn màn mưa bên ngoài, tỏ ra lo lắng, nhẹ giọng nói:
- Mưa dầm lớn rơi lâu như vậy, tu sĩ cảnh giới Quan Hải cũng chưa chắc chịu được, trừ khi là đã sớm bố trí trận pháp dẫn mưa. Nhưng thủ đoạn như vậy, nếu quả thật do trận pháp dẫn dắt chứ không phải đạo pháp bản thân, chính là chơi trò rải tiền hoa tuyết từ trên trời xuống đất. Cho nên nhiều khả năng là tu sĩ cảnh giới Long Môn. Không biết đạo sĩ Kim Quế quán là cảnh giới nào, có thể ứng phó với cơn mưa dầm ảnh hưởng đến khí vận sông núi này hay không.

Giọng nói của Trương Sơn Phong không lớn, có điều Trúc Phụng Tiên và bà lão nhà Yên Chi đều là tông sư võ đạo trên giang hồ, chỉ cần lưu ý một chút là có thể nghe được rõ ràng.

Trúc Phụng Tiên cũng không quan tâm bị người khác nói là “nghe lén”, cười nói với bà lão:
- Nhà Yên Chi và Kim Quế quán đã có quan hệ không tầm thường, chắc là biết được pháp thuật tiên gia của quán chủ cao hay thấp chứ?

Bà lão do dự một thoáng, gật đầu nói:
- Nghe đâu quán chủ Trương Quả đã hai trăm tuổi, có tu vi cảnh giới Long Môn, giống như giao long trong mây hô mưa gọi gió.

Trúc Phụng Tiên nhíu mày nói:
- Gần đây trên giang hồ đang xôn xao, nói rằng Trương Quả bế quan mấy chục năm, lần này thuận lợi xuất quan, đã bước vào lục địa thần tiên trong truyền thuyết rồi.

Bà lão cười khổ nói:
- Địa tiên kết thành kim đan vốn xa rời trần thế, một lòng tu hành, hướng tới đại đạo, còn thu đồ đệ làm gì? Nếu đổi lại là Trúc lão bang chủ, trở thành thần tiên rồi, còn muốn nhặt tiền trên đường lầy lội sao? Có điều quán chủ Trương Quả sở hữu tư chất địa tiên, chuyện này vô cùng chân thực, chỉ sớm hay muộn mà thôi, Trúc lão bang chủ không cần hoài nghi. Cháu gái của lão bái Trương Quả làm sư phụ, tu hành ở Kim Quế quán, tiền đồ sẽ không tệ.

Trúc Phụng Tiên gật đầu, vẻ mặt tốt hơn một chút.

Trúc Phụng Tiên là võ phu cảnh giới thứ bảy, có kiêng dè tu sĩ cảnh giới Long Môn, nhưng tuyệt đối sẽ không sợ hãi. Tu sĩ cảnh giới Động Phủ và Quan Hải bị lão giết chết, đã có đến một bàn tay rồi.

Còn đối với một đạo sĩ cảnh giới Long Môn, tương lai có hi vọng trở thành địa tiên cảnh giới Kim Đan, Trúc Phụng Tiên sẵn lòng tôn kính, tin tưởng đối phương có đủ tư cách làm người truyền đạo của cháu gái mình. Vì chuyện này, bang Đại Trạch dự định hàng năm sẽ lấy ra một khoản tiền hiếu kính, sai người bí mật đưa đến Kim Quế quán ở núi Thanh Yêu.

Trong lòng Trương Sơn Phong thở dài, không phải người trên núi thì không biết chuyện trên núi. Trong suy nghĩ của Trúc Phụng Tiên và bà lão nhà Yên Chi, thần tiên quá xa xôi hư ảo, không dính bùn lầy. Địa tiên Kim Đan thì thế nào, chẳng phải cũng cần vất vả tích góp của cải sao?

Chuyện tu hành là chốn tiêu tiền lớn nhất thế gian, giống như động không đáy. Có điều phần lớn địa tiên, ngoại trừ tu sĩ sông núi đã quen tiêu dao tự tại, những đại tu sĩ sở hữu ngọn núi động phủ, sẽ có người trong môn phái lo liệu việc vặt, thu xếp quan hệ, mình chỉ cần dốc lòng tu đạo là được. Nói như thế, bà lão nhà Yên Chi xem như miễn cưỡng đoán đúng phân nửa.

Ngay lúc này, trong núi sâu phía xa dưới màn mưa bao phủ, bỗng nhiên sấm chớp đùng đùng, mặt đất rung động, gió lệch mưa nghiêng, lại có tiếng vang như sư tử gầm, liên tục không ngừng.

Chốc lát sau, cảnh tượng kỳ lạ chấm dứt, giữa trời đất chỉ còn lại mưa lớn đầy trời.

Sau khoảng một nén nhang, ba người Tùy Hữu Biên, Chu Liễm và Trúc Phụng Tiên trong hang đá, gần như đồng thời ngẩng đầu nhìn ra bên ngoài.

Vẻ mặt Trúc Phụng Tiên vẫn như thường, nhưng trong lòng lại căng thẳng. Trong số tùy tùng của người trẻ tuổi áo trắng kia, lại có hai người sở hữu trực giác nhạy bén không kém gì mình?

Nên biết lão là một trong tứ đại tông sư của ba nước Thanh Loan, Khánh Sơn và Vân Tiêu. Ba mươi năm trước trong trận tranh đấu với tiên nhân, lão đã bị thương một chút cơ sở võ đạo, trải qua ba mươi năm chữa thương, vẫn chưa khôi phục võ học đỉnh cao. Nhưng hổ chết xương còn không ngã, Trúc Phụng Tiên lão chỉ từ vị trí thứ hai lùi đến thứ tư mà thôi, hiện giờ vẫn là đại tông sư hoàn toàn xứng đáng.

Lần này Phật Đạo thịnh hội liên tiếp ba năm, đúng là đã dẫn tới rất nhiều tu sĩ giấu đầu lòi đuôi. Nhưng cao thủ đỉnh cấp trong giang hồ chỉ có thể đếm được trên đầu ngón tay. Sao lần này vô tình gặp gỡ giữa núi, trong thoáng chốc lại xuất hiện nhiều như vậy?

Ngoại trừ cô gái đeo kiếm dung nhan tuyệt mỹ và lão già lom khom nhìn như bình dị gần gũi, còn lại nam tử đeo đao phong thái hiên ngang và gã đàn ông lanh lợi trầm mặc ít nói, rõ ràng cũng là cao thủ giang hồ cơ sở rất vững chắc. Đây mới là nguyên nhân Trúc Phụng Tiên xem trọng người trẻ tuổi áo trắng kia. Mây từ rồng, gió từ hổ, nếu người trẻ tuổi áo trắng kia chỉ là loại mèo rắn, làm sao hàng phục được mấy vị tông sư võ học này?

Mưa dần dần nhỏ đi. Trong màn mưa, có nhiều đạo sĩ trẻ tuổi và đạo đồng nhỏ cùng nhau đi tới. Đạo sĩ Kim Quế quán cầm đầu mặt mày tuấn tú, nụ cười mê người, trong tay ngoại trừ một chiếc ô che mưa thì không có thứ gì khác. Những người phía sau đạo nhân, ngoại trừ ô của mình thì còn ôm một mớ ô giấy dầu.

Sau khi đi vào hang đá, đạo sĩ cầm đầu gấp ô giấy dầu ướt sũng, dáng vẻ ung dung, có một phong vị khác với những công tử thế gia. Hắn nhìn mọi người, mỉm cười nói:
- Có yêu nhân quấy phá, muốn dùng mưa dầm phá hư sông núi của Kim Quế quán ta. Mọi người không cần hoang mang, quán chủ của chúng ta và hai vị bạn thân từ xa đến đã thi triển thần thông. Đám yêu nhân kia đã bị chém đầu đền tội, không kẻ nào chạy thoát khỏi lưới. Các người có thể yên tâm theo ta lên núi.

Bà lão nhà Yên Chi lặng lẽ nhìn thiếu nữ Thanh Thành, trong mắt đầy vẻ kích động không thể kiềm chế. Lúc trước nghe được tiếng sấm nổi dậy, bà ta đã sớm có một chút suy đoán, ôm lòng cầu may, tâm tình xao động. Lúc này nghe đạo sĩ anh tuấn nói có bạn thân của quán chủ ra tay tương trợ, bà ta liền nghĩ đến dung mạo thần tiên trong bức tranh mà tổ sư nhà mình cất kỹ, nhất thời trăm cảm xúc lẫn lộn.

Năm xưa bà ta vẫn còn trẻ, lúc tổ sư hấp hối đã bảo bà ta và một vị sư tỷ cầm hai đầu tranh cuộn, mở tranh ra để tổ sư nhìn vị nam tử trong tranh lần cuối cùng.

Lần này bọn họ không ngại vất vả hộ tống Thanh Thành lên núi tu đạo, là do vị nam tử thần tiên kia sai người truyền tin cho nhà Yên Chi. Đây là lần đầu tiên y chủ động nói chuyện với nhà Yên Chi sau hơn trăm năm, vì vậy trên dưới sư môn đều vô cùng mừng rỡ.

Lúc này đạo sĩ anh tuấn khí chất xuất trần cười nói:
- Những ô giấy dầu này, mặt ô tuy bình thường, nhưng cán ô lại do tiền bối trong quán chúng ta dùng cành quế linh khí chế tạo thành, có thể chống lại mưa gió yêu tà. Dù là qua rừng núi, vào ao hồ, hay là một mình đi giữa nghĩa địa ban đêm, tay cầm ô cành quế của đạo quán chúng ta, sẽ không cần lo lắng quỷ quái quấy nhiễu, bọn chúng sẽ tự động tránh xa. Quán chủ lo lắng trong chư vị có phụ nữ và trẻ con chưa từng tập võ, cho nên bảo chúng ta xuống núi đưa ô.

Đạo sĩ anh tuấn nói xong, liền đưa ra hơn mười chiếc ô cành quế đặc sản của Kim Quế quán.

Một đạo đồng nhỏ môi hồng răng trắng, đã sớm nhìn thấy bạn cùng lứa duy nhất là Bùi Tiền. Chờ khi sư thúc bảo đưa ô, hắn lập tức bước nhanh đến chỗ tiểu cô nương đen nhẻm, vừa đưa ô cành quế trong tay vừa nhếch miệng cười.

Bùi Tiền cũng không thích mấy cái ô tồi tàn của Kim Quế quán, có điều Trần Bình An đang ở bên cạnh, vẫn phải nói một chút “sư quy gia pháp”. Cô khéo léo từ chối ô giấy dầu của đạo đồng nhỏ, sau đó ngoan ngoãn cảm ơn thằng nhóc kia.

Đạo đồng nhỏ hơi băn khoăn, nói:
- Không thể xem thường cơn mưa dầm này, rất dễ tổn thương dương khí con người. Những người thân thể yếu đuối, hoặc là số mệnh không tốt, trong thoáng chốc sẽ gieo vào mầm bệnh, đến lúc đó uống thuốc cũng vô dụng. Dù sao ô này là đạo quán chúng ta cho các người mượn, cũng không thu tiền, sao lại không cần? Cầm đi, cán ô cành quế cũng không nặng.

Bùi Tiền chỉ hận mình không thể trợn trắng mắt.

Thấy đạo đồng nhỏ đáng yêu kia nghiêm túc giải thích cho Bùi Tiền sự lợi hại của cơn mưa dầm này, Trần Bình An cười cười, xoa đầu Bùi Tiền, bảo cô bé cầm lấy ô giấy dầu. Sau đó hắn nhìn vị đạo sĩ anh tuấn kia, hỏi:
- Vị đạo trưởng này, nghe nói quý quán đang mở cửa thu nhận đệ tử. Không biết những người xứ khác vừa dịp đến đây như chúng ta, có thể lên núi vào quán đứng ngoài quan sát, làm phiền một phen hay không?

Vị đạo sĩ anh tuấn kia mỉm cười gật đầu, nói:
- Đương nhiên có thể. Sau khi lên núi, chỉ cần nhận một quyển sách nhỏ, chú ý một số cấm kỵ Đạo môn ghi chép trong đó là được.

Đạo đồng nhỏ lập tức quay đầu nói với đạo sĩ anh tuấn:
- Tiểu sư thúc, con đã thuộc làu những hạng mục trong sách rồi, hay là để con nói cho vị công tử này nghe?

Đạo sĩ anh tuấn mỉm cười nói:
- Nếu công tử chịu nghe ngươi ồn ào, ngươi cứ theo công tử lên núi là được.

Trần Bình An ôm quyền cảm ơn hai vị đạo sĩ Kim Quế quán một lớn một nhỏ, cười nói:
- Đa tạ đạo trưởng, làm phiền vị đạo trưởng nhỏ này.

Sau đó hắn quay đầu nhìn Từ Viễn Hà và Trương Sơn Phong. Hai người khẽ gật đầu, ra hiệu chuyện lên núi vào quán không có gì bất ổn, thậm chí có phần mừng rỡ với chuyện này.

Kim Quế quán quanh năm đóng cửa từ chối tiếp khách, khiến cho người ngoài không thể nhìn thấy phong thái trong đó. Dưới núi nước Thanh Loan có lời đồn, những hoa quế màu vàng trong cảnh tượng đặc sắc thiên nữ rải hoa của chùa Bạch Thủy, chính là bắt nguồn từ mấy cây quế già ngàn năm phía sau Kim Quế quán. Còn có một vị tiên nhân vân du trời đất đáp xuống, ghé thăm đạo quán, chỉ vào cây quế thốt lời vàng ngọc: “Đây giống như cây được trồng trên cung trăng vậy”. Bây giờ có thể lên núi vào quán xem cây, đúng là một chuyện may mắn.

Lúc trước trâu đất màu vàng cũng không đi vào hang đá. Dù sao nó xuất thân yêu vật, lần này lại gặp phải biến cố, một khi khiến cho tu sĩ Kim Quế quán nghi thần nghi quỷ, Trần Bình An sẽ phải giải thích rất nhiều.

May mà trâu đất màu vàng rất am hiểu đường lối trên núi, ở cách xa hang đá dùng tiếng lòng báo cho Trần Bình An. Sắp tới nó sẽ ẩn nấp dưới núi chờ đợi, trừ khi địa tiên tuần tra, nếu không sẽ không bị phát hiện hành tung. Trần Bình An bèn bảo nó cẩn thận một chút, có chuyện thì cứ chạy nhanh lên núi Thanh Yêu, hắn sẽ ra mặt nói chuyện rõ ràng.

Đạo quán nằm trên đỉnh núi Thanh Yêu, đường xá lầy lội không dễ đi. Từ chân núi đến bên ngoài sơn môn đạo quán, đường nhỏ nhiều nhất chỉ chứa được ba người đi kề vai, không cần hi vọng ngồi xe ngựa lên núi. Từ đó có thể thấy, Kim Quế quán quả thật không muốn giao tiếp với dưới núi lắm.

Lúc trước bọn Trần Bình An đi tới cung Thanh Hổ núi Thanh Cảnh, được xây dựng tới ba ngàn bậc đan thang, còn to lớn khí phái hơn cầu thang trong hoàng cung nhà đế vương.

Kim Quế quán không lớn, chỉ chứa bốn năm chục đạo nhân tu hành. Các lộ nhân sĩ mang theo vãn bối lên núi, đã sớm mời người xây dựng nhà cỏ giữa sườn núi Thanh Yêu làm nơi cư trú, Kim Quế quán cũng không ngăn cản chuyện này.

Có một số môn phái giang hồ ánh mắt linh hoạt, hơn nữa vốn là thế lực ở nước Thanh Loan. Bọn họ thấy Kim Quế quán dễ nói chuyện, bèn dứt khoát thuê mấy chục trai tráng khởi công xây dựng nhà cửa giữa sườn núi, quy mô không thua gì nhà trọ quán rượu ở nơi sầm uất.

Kim Quế quán là một đạo quán nằm trong rừng rậm không thường nhìn thấy. Từ trong lời nói của vị đạo trưởng anh tuấn kia, mọi người mới biết được, đồ đệ mà quán chủ thu nhận sẽ được ghi vào gia phả vàng ngọc do triều đình nước Thanh Loan ban hành. Chỉ cần làm môn hạ của quán chủ Trương Quả, cho dù là nhập tịch, cũng sẽ trở thành một tiên sư gia phả. Có lẽ đây mới là lý do chủ yếu, khiến cho hào môn giang hồ và gia đình quyền quý dẫn theo vãn bối trong nhà chen chúc kéo đến.

Chỉ có những cung lớn Đạo giáo mới chia ra tam đô ngũ chủ thập bát đầu (1). Kim Quế quán chỉ có bốn năm chục người, dĩ nhiên không rườm rà như vậy. Ngoại trừ quán chủ Trương Quả thì còn bảy tám chấp sự. Đạo sĩ anh tuấn Hứa Bá Thụy là cổ đầu (người coi trống) của Kim Quế quán, dù sao đạo quán có nhỏ đến mấy, hai thứ chuông trống vẫn rất quan trọng.

Lão thần tiên Trương Quả sẽ tiến hành thu đồ đệ vào ngày mốt. Bang Đại Trạch của Trúc Phụng Tiên là một trong số mấy cường hào ở nước Thanh Loan, đã sớm dùng số tiền lớn xây dựng một hành cung tránh nắng giữa sườn núi, hao phí hơn mười vạn lượng bạc trắng, cực kỳ nổi bật trong đông đảo kiến trúc. Xem ra Trúc Phụng Tiên rất tự tin với chuyện cháu gái trúng tuyển.

Nhà Yên Chi cũng đã thuê người xây dựng một biệt viện sân vườn. Nhưng Hứa Bá Thụy lại dứt khoát nói:
- Lưu Thanh Thành, Trúc Tử Dương, hai người các ngươi có thể theo bần đạo vào quán. Kim Quế quán đã dọn ra hai gian phòng trang nhã rồi.

Sau đó hắn cười nói với Trần Bình An:
- Đạo quán đơn sơ, đãi khách không chu đáo. Hiện giờ chỉ còn lại hai gian phòng, nếu công tử chịu vào ở một mình, có thể theo bần đạo lên núi. Còn nếu không muốn chia tay với bằng hữu, lại không có nơi khác để ở, bần đạo có thể ra mặt, giúp công tử nói chuyện với một số quý nhân quen biết ở nước Thanh Loan, xin ở nhờ vài ngày. Chuyện này cũng không trở ngại, ngược lại còn là một thiện duyên.

Trúc Phụng Tiên cười lớn nói:
- Hứa đạo trưởng cần gì phải phiền phức như vậy, để nhóm người công tử đến chỗ ta ở là được.

Bà lão nhà Yên Chi cũng muốn mời nhóm Trần Bình An, chỉ tiếc bọn họ đều là nữ nhân, phải tránh hiềm nghi, thật sự không tiện mở miệng, đành trơ mắt nhìn thiện duyên lớn này bị những võ phu thô tục của bang Đại Trạch cướp đi.

Mưa núi đã tạnh, Trần Bình An hỏi thăm Hứa Bá Thụy hôm nay có thể đi xem cây quế trong đạo quán hay không. Hứa Bá Thụy cười bảo dĩ nhiên là được, nhưng phải cần hắn dẫn đường, người ngoài không thể tùy ý đi lại trong đạo quán.

Thế là Trần Bình An dẫn theo Bùi Tiền, Trương Sơn Phong và Từ Viễn Hà tiếp tục lên núi. Bốn người trong tranh cuộn thì đi theo “lão ma đầu nước Thanh Loan” Trúc Phụng Tiên, tới chỗ ở của bang Đại Trạch.

Đạo đồng nhỏ thích đến gần làm quen với Bùi Tiền, ôm một bó ô giấy dầu thu lại sau khi mưa ngừng. Chẳng có cách nào, trong đạo quán thì hắn nhỏ tuổi nhất, còn lại phần lớn là đám người già cổ hủ, răng không thừa được mấy cái, nếu không thì cũng là đạo sĩ nghiêm túc như tiểu sư thúc Hứa Bá Thụy. Khó khăn lắm mới gặp được một người bạn cùng lứa để tán gẫu, đạo đồng nhỏ đương nhiên rất vui mừng.

Bùi Tiền thì có phần không kiên nhẫn, sao lại gặp phải một con chim sẻ nhỏ líu ríu như vậy? Người tu đạo trên núi, chẳng phải đều nên giống như người mù, người câm, người điếc sao?

Sau khi rời khỏi vòng tay của sư môn và trưởng bối, thiếu nữ Lưu Thanh Thành của nhà Yên Chi tỏ ra rụt rè, còn cháu gái Trúc Tử Dương của Trúc Phụng Tiên thì không sợ trời không sợ đất, vẫn luôn hỏi thăm Hứa Bá Thụy một số lời đồn trên giang hồ liên quan đến Kim Quế quán.

Hứa Bá Thụy có lẽ là một người tính tình ôn hòa, kiên nhẫn trả lời từng câu, không thêm mắm thêm muối, cũng không che che giấu giấu, khiến Trúc Tử Dương theo đó sinh ra thiện cảm với Kim Quế quán.

Lưu Thanh Thành lấy can đảm, nhẹ giọng hỏi thiếu nữ mặt tròn của bang Đại Trạch:
- Hóa ra ngươi không phải tên là “Vãn Thượng” à?

Trúc Tử Dương vỗ trán một cái, bất đắc dĩ nói:
- Sao lại có người giang hồ ngây thơ như ngươi vậy?

Không trực tiếp nói Lưu Thanh Thành là ngu ngốc, đã xem như Trúc Tử Dương hạ miệng lưu tình rồi.

Khóe mắt Trúc Tử Dương liếc thấy thanh đoản đao tinh xảo bên hông Lưu Thanh Thành, trên vỏ trúc có khắc hai chữ “Tối Nhĩ”, bèn cười hỏi:
- Đoản đao này của ngươi rất đẹp, cho ta xem thử nhé?

Lưu Thanh Thành lắc đầu, rụt rè nói:
- Đây là di vật của thái thượng tổ sư, không thể tùy tiện đưa cho người khác.

Trúc Tử Dương còn muốn nài nỉ. Hứa Bá Thụy mỉm cười nói:
- Trúc Tử Dương, không nên ép buộc người khác. Sau này nếu thành đồng môn tu hành thì phải chú ý.

Trúc Tử Dương có ấn tượng không tệ với vị đạo sĩ anh tuấn này. Hơn nữa hắn là một trong số đệ tử đích truyền của quán chủ, rất có thể sẽ là sư huynh của mình ở Kim Quế quán. Nghe hắn nói như vậy, cô liền bỏ qua cho thiếu nữ nhà Yên Chi tính tính yếu đuối bên cạnh.

Lưu Thanh Thành dùng ánh mắt cảm kích nhìn đạo sĩ, người sau chỉ cười trừ.

Trần Bình An nhìn hai thiếu nữ sắp trở thành người tu hành trên núi, bỗng dưng nhớ đến năm xưa ở nước Thải Y, đã gặp được một thiếu nữ luyện khí sĩ đeo lục lạc, từng cùng hắn kề vai chiến đấu, hàng yêu trừ ma. Mặc dù đạo hạnh của cô không cao, nhưng cũng không gây phiền phức, là một cô nương có tấm lòng hiệp nghĩa. Sau đó cô đã trở thành đệ tử của Thần Cáo tông được người khác hâm mộ.

Còn gặp được đôi huynh muội khổ cực trong phòng chứa củi, hôm nay hai đứa bé kia cũng xem như nửa người tu hành rồi.

Thế sự huyền diệu chỉ trong những việc thường ngày.

Sau khi tới đạo quán, Trúc Tử Dương và Lưu Thanh Thành được đạo sĩ dẫn đến nơi trú ngụ. Đạo đồng nhỏ thì theo các sư huynh đi cất ô cành quế. Những đồ vật này rất quý giá, nghe Hứa tiểu sư thúc nói, nếu bán cho người dưới núi, một chiếc có thể đáng giá mấy ngàn lượng bạc, không hổ là cành quế “cung trăng” cắt xuống từ cây quế tổ tông.

Đạo đồng nhỏ mơ mộng xa xôi, một cán ô cành quế đã đáng giá như vậy, nếu quy sáu cây quế ra tiền để bán, núi Thanh Yêu nhà mình không phải sẽ biến thành một ngọn núi vàng thật lớn sao?

Hứa Bá Thụy dẫn nhóm người Trần Bình An băng qua đạo quán yên tĩnh không lớn, đi tới cửa sau.

Mưa tạnh trời trong, tầm mắt sáng ngời rộng rãi. Những cây quế cao lớn cổ xưa, cành lá tươi tốt. Cây quế chính giữa lại càng chọc trời. Hứa Bá Thụy lần lượt giới thiệu tên của mỗi cây quế già, cùng với những vị cao nhân trên núi từng đứng dưới cây nói những lời tuyệt diệu. Trình bày một cách rõ ràng vắn tắt, nhưng vẫn không mất đi sự thú vị.

Giữa những cây quế có đường đá xanh ngang dọc đan xen, dưới bóng cây có bàn đá ghế đá. Bàn đá phía dưới cây quế tổ tông, mặt bàn còn được đạo quán khắc họa thành bàn cờ. Hứa Bá Thụy dừng lại ở đây một lúc, dùng ngón tay vuốt qua mặt bàn cờ, cười bảo bàn cờ này cũng không phải dùng dao khắc thành, mà là một vị kiếm tiên xứ khác du lịch đến đây, dùng miệng phun ra kiếm khí sắc bén “đo đạc” tạo thành.

Đạo nhân trong quán đã từng dùng thước đo cẩn thận xem xét, phát hiện khoảng cách ngang dọc không sai lệch chút nào. Cho nên vị kiếm tiên kia ít nhất cũng phải là cảnh giới Kim Đan, thậm chí có thể là một vị kiếm tiên cảnh giới Nguyên Anh hiếm thấy ở Bảo Bình châu.

Nói đến đây, Hứa Bá Thụy thần thái rạng rỡ, mỉm cười nói:
- Rất lâu trước kia, trong quán chúng ta có một vị tiền bối muốn truy xét ngọn nguồn, đã từ vạn dặm xa xôi đi tới miếu Phong Tuyết, núi Chân Vũ, núi Chính Dương và vườn Phong Lôi, tìm kiếm hỏi thăm vị kiếm tiên kia.

- Ông ấy đã bái kiến rất nhiều kiếm tu nổi tiếng, cuối cùng đưa ra một kết luận. Vị kiếm tiên kia rất có thể là người đứng đầu cảnh giới Nguyên Anh ở Bảo Bình châu, vườn chủ của vườn Phong Lôi, Lý Đoàn Cảnh Lý đại kiếm tiên. Đáng tiếc sau khi vị tiền bối kia trở về đạo quán, lại không có tâm sức đến vườn Phong Lôi xác nhận. Sau đó trăm năm, chuyện này đã thành một vấn đề chưa được giải quyết.

Trần Bình An tâng bốc:
- Ta đã từng thông qua tranh cuộn tiên gia trên một chiếc thuyền, nhìn thấy Lý vườn chủ vườn Phong Lôi xuất kiếm, rất lợi hại. Nghe nói sau khi Lý vườn chủ kết thúc mối hận cũ với núi Chính Dương, đã binh giải rồi. Cũng không biết vườn Phong Lôi có tìm được người chuyển thế của vị kiếm tiên này hay không, để y trở lại sơn môn tu hành, tiếp tục hương khói đạo duyên.

Hứa Bá Thụy kinh ngạc nói:
- Lý đại kiếm tiên đã binh giải qua đời rồi?

Xem ra trăm năm gần đây, Kim Quế quán đúng là không hỏi thế sự.

Trần Bình An cười nói:
- Nghe nói là vậy, có điều chân tướng thế nào, ta cũng không dám suy đoán lung tung. Lý đại kiếm tiên tu vi thông thiên, không chừng là đang tìm kiếm thời cơ phá vỡ vách chắn cảnh giới Ngọc Phác.

Lưu Bá Kiều của vườn Phong Lôi, xem như là một trong số bằng hữu trên núi ít ỏi của Trần Bình An. Có lần vì tiên tử Tô Giá, Lưu Bá Kiều còn ngự kiếm đuổi theo thuyền của Trần Bình An, hai bên đã gặp mặt một lần.

Cho nên đối với chuyện Lý Đoàn Cảnh binh giải, Trần Bình An biết đó là sự thật. Có điều chuyện lớn như vậy, hắn là bằng hữu của Lưu Bá Kiều, đương nhiên không tiện khẳng định với người ngoài, tự hào vì mình biết được nội tình.

Trần Bình An đã quen nhìn việc nhìn người một cách tỉ mỉ, đột nhiên phát hiện khi mình thuận miệng nói ra “cảnh giới Ngọc Phác”, ánh mắt Hứa Bá Thụy lại xuất hiện biến hóa nhỏ bé.

Lúc này hắn mới tỉnh ngộ, không phải tất cả luyện khí sĩ đều biết xưng hô của năm cảnh giới cao, thậm chí có người cả đời chỉ có thể trơ mắt nhìn lên hai chữ “địa tiên”. Giống như Chu Hà năm xưa, khăng khăng cho rằng điểm cuối võ đạo là cảnh giới thứ chín Sơn Điên, không thể cao hơn được nữa.

Có điều với tâm cảnh của Trần Bình An hôm nay, đã không để ý tới loại sơ suất không quan trọng này nữa. Hành tẩu giang hồ, kết ân oán với võ phu thuần túy, hoặc là lên núi ngắm cảnh giao tiếp với luyện khí sĩ, nếu chỉ muốn cầm mà không muốn thả, chưa chắc đã là chuyện tốt. Một số lời gọi là tiết lộ thiên cơ, không chừng có thể bớt đi rất nhiều phiền phức.

Sau khi xem những cây quế thần tiên của Kim Quế quán, chuyến dạo chơi đạo quán cũng hạ màn. Hứa Bá Thụy dẫn nhóm người Trần Bình An đến ngoài sơn môn, trịnh trọng mời bọn họ ngày mốt tới đây xem lễ, còn nói sẽ giúp sắp xếp chỗ ngồi.

Trần Bình An cảm ơn, sau đó đi xuống sườn núi. Đi được hơn trăm bước, Từ Viễn Hà nhìn lại, thấy Hứa Bá Thụy vẫn đưa mắt nhìn nhóm người bọn họ rời đi, bèn quay đầu nhẹ giọng cười nói:
- Vị Hứa đạo trưởng này là một người có tâm, sau này nhất định sẽ sống không tệ ở Kim Quế quán.

Trần Bình An gật đầu nói:
- Phủ đệ tiên gia trên núi, dù sao cũng cần một người đại diện, đối nhân xử thế một cách cẩn thận chặt chẽ.

Trương Sơn Phong có phần thương cảm, hiển nhiên là nhớ đến sư môn của mình. Xông pha bên ngoài mấy năm, chung quy vẫn nhớ đến cái mũi sùi đỏ và tiếng ngáy như sấm của sư phụ. Nếu không gặp được Trần Bình An và Từ Viễn Hà, e rằng vị thiên sư khác họ chưa được ghi vào gia phả núi Long Hổ này, đã sớm chán nản trở về Bắc Câu Lô Châu rồi.

Đến viện lớn của bang Đại Trạch, đã có một quản sự khôn khéo giỏi giang chờ ở cửa lớn, hơi nghiêng người khom lưng, dẫn bọn Trần Bình An đến chỗ ở.

--------

Tại một gian nhà trang nhã tĩnh mịch nằm phía sau Kim Quế quán, còn sâu hơn chỗ cây quế, Hứa Bá Thụy đang lễ độ cung kính đứng ở trong sân.

Hành lang dưới mái hiên rộng rãi sạch sẽ, dưới bậc thang có ba đôi guốc gỗ và giày. Trong nhà có một lão đạo nhân siêu trần thoát tục, chính là quán chủ Trương Quả, tu sĩ cảnh giới Long Môn.

Còn có hai vị khách quý đã “trượng nghĩa ra tay” trấn áp những kẻ gây rối, đó là thanh niên cường tráng Khương Uẩn, cùng với đại đô đốc Vi Lượng của nước Thanh Loan.

Lúc này ba người đang ngồi quanh một cái bàn, mỗi người ăn một tô mì chay, trộn măng, nấm và mấy loại rau dại mọc vào mùa xuân trong rừng núi, còn có bột chiên và mì nước đun lửa nhỏ, mùi thơm tràn ngập.

Sau khi Hứa Bá Thụy nói qua cách nhìn sơ lược của mình với nhóm Trần Bình An, quán chủ Trương Quả cười bảo đệ tử lui xuống nghỉ ngơi.

Lão đạo sĩ hỏi:
- Là trùng hợp, hay là bị bọn họ biết được ngọn nguồn tìm tới?

Vi Lượng ngẫm nghĩ, nói:
- Trùng hợp thôi. Nếu không phải Hứa Bá Thụy mặt mũi lớn, đám người này vốn đã đi chặn cửa phủ nhà ta rồi.

Hắn lại quay đầu nhìn Khương Uẩn, hỏi:
- Nhìn vừa rồi sắc mặt của ngươi thay đổi, chẳng lẽ là quen biết người này?

Khương Uẩn gật đầu nói:
- Là người bản xứ động tiên Ly Châu, lần đầu tiên gặp mặt còn là một dân chúng bình thường, hôm nay đã thay đổi hoàn toàn, thiếu chút nữa đã không nhận ra được. Tính tình thì không tệ, có điều ta suy đoán người này dính dáng đến không ít chuyện. Lúc trước gặp nhau ở bến thuyền Phong Vĩ, ta cũng không dám nói chuyện nhiều với hắn.

Vi Lượng cười nói:
- Đã là người sinh trưởng ở động tiên Ly Châu, có thế nào cũng không kỳ quái.

Khương Uẩn không phản bác chuyện này. Những người bên ngoài mang tiền đồng kim tinh tới tìm cơ duyên như hắn, thực ra vẫn kém xa người bản xứ ngồi chờ phúc duyên rơi xuống đầu.

Có điều trong số những người xứ khác, Khương Uẩn xem như khá may mắn, có thể mang đi dây khóa rồng đã luyện hóa thành vật bản mệnh, đây là một niềm vui bất ngờ. Ngay cả tu vi như sư phụ hắn cũng cảm thấy kinh ngạc vui mừng, cười bảo Khương Uẩn không chừng đã đoạt đi không ít khí vận của họ Khương Vân Lâm, mới có vận may lớn như vậy.

Khi đó dây xích buông xuống giếng nước động tiên, bị hắn nhìn trúng. Sau khi lấy được, sư phụ tìm bằng hữu giúp đỡ giám định, đã đưa ra một kết luận. Nó là di vật quý giá của một đại tu sĩ, ít nhất là cảnh giới Tiên Nhân, trước khi phá giải tất cả bí thuật cấm chế, đã là một món nửa tiên binh hàng thật giá thật.

Nghe đồn cấp bậc cao nhất của loại dây khóa rồng này được gọi là dây chém rồng, uy thế còn lớn hơn giỏ long vương có thể giam cầm giao long địa tiên viễn cổ. Đại tu sĩ chỉ cần ném nó ra, sẽ có thể ung dung trói giao long lại, rung tay một cái là có thể lột da rút gân giao long tại chỗ, chỉ để lại xương sống và một viên ngọc châu.

Có điều cơ duyên lớn nhất động tiên Ly Châu không phải là những “vật chết” này, mà là năm con vật nhỏ kia. Chẳng phải cứ đào đất ba thước là có thể tìm thấy, mà phải dựa vào số mệnh. Khương Uẩn còn không thấy được mặt mũi của chúng.

Lão đạo nhân Trương Quả bỏ đũa xuống, vỗ vỗ bụng, nói:
- Không ăn ngũ cốc nhiều năm, vì chiêu đãi hai vị khách quý các người nên phá lệ một lần, cảm giác cũng không tệ.

Ông ta lại híp mắt cười hỏi:
- Vi đại đô đốc, lần này Kim Quế quán hao tốn sức lực như vậy, mở cửa thu đồ đệ, còn cố ý tiết lộ bí mật cây quế tổ tông nhà ta có thể luyện hóa nửa tiên binh. Để cho những kẻ bất chính trà trộn vào trong, sau đó đóng cửa đánh chó, giúp nước Thanh Loan các người đánh chết mười mấy tên tu sĩ từ bên ngoài đến. Hoàng đế họ Đường không tỏ ý một chút sao?

Vi Lượng cười nói:
- Tỏ ý? Có chứ, không phải ta đang ngồi đây ăn một tô mì chay sao?

Trương Quả đưa tay chỉ vào Vi Lượng, trách móc:
- Tổ sư gia đạo quán năm xưa nói không sai, đúng là vắt cổ chày ra nước. Chẳng trách lại truyền lời xuống, bảo Kim Quế quán ít giao tiếp với phủ đô đốc của ngươi.

Vi Lượng còn thừa nửa tô mì chay, đã bỏ đũa xuống. Kết quả lại bị Khương Uẩn cầm qua, không nói gì khác ăn ngấu nghiến. Vi Lượng làm như không thấy, nói với quán chủ Trương Quả:
- Ngươi nên biết hài lòng đi. Ban đầu xây dựng Kim Quế quán, vốn chẳng có hương khói gì. Là ai mời được Lý Đoàn Cảnh tới chỗ các ngươi ăn mì chay? Còn có lần này, Khương đại công tử của họ Khương Vân Lâm, Trương Quả ngươi tự mình mời được à? Một tô mì chay rẻ tiền, cho dù ngươi bưng đến trước mặt người ta, Khương Uẩn sẽ chịu cầm đũa lên sao?

Khương Uẩn vẫn vùi đầu ăn mì, cũng không nể mặt Vi Lượng, nói hàm hồ không rõ:
- Một đôi đũa là đủ rồi, mì chay cho thêm mấy tô là được.

Trương Quả cười ha hả, tâm tình rất tốt. Trong ấn tượng của ông ta, con cháu họ Khương Vân Lâm ai nấy đều mắt cao hơn đầu. Nhưng vị tu sĩ trẻ tuổi Khương Uẩn này thì lại khác, đã kết bạn đồng hành với Vi Lượng, quan hệ còn tâm đầu ý hợp, chắc không phải xuất thân từ dòng bên họ Khương. Vậy thì thú vị rồi.

Vi Lượng do dự một thoáng, nói:
- Trương Quả, tiểu nha đầu của nhà Yên Chi kia, sau này phiền ngươi chiếu cố nhiều hơn.

Trương Quả nở một nụ cười đầy thâm ý, hỏi:
- Dao rọc giấy “Tối Nhĩ” mà tiểu nha đầu đeo bên hông, chắc là đồ vật năm xưa ngươi tặng cho một cô gái tổ sư nhà Yên Chi đúng không?

Vi Lượng thở dài một tiếng.

Trương Quả cũng không được đằng chân lân đằng đầu. Những tình thù hồng trần này, thực ra mỗi tu sĩ năm cảnh giới trung ít nhiều đều sẽ có. Quay đầu nhìn lại giống như mây khói thoảng qua, chỉ xem tu sĩ có nhớ tình cũ hay không mà thôi.

Ân thù dưới núi năm xưa, sau khi một bên trở thành tiên gia, tình huống sẽ trở nên rất phức tạp.

Tu sĩ nhớ thù, ân oán trăm năm còn như mới. Thường sẽ có hào môn gia tộc ở một số địa phương, đột nhiên gặp phải tai bay vạ gió, bị nhổ cỏ tận gốc không chừa một mống.

Tu sĩ nhớ tình, vậy con cháu đời sau của một người nào đó dưới núi, sẽ có thể lặng lẽ hưởng thụ ân huệ tổ tiên. Có lẽ ngay cả chính bọn họ cũng không biết, vì sao có thể nhiều lần tránh được kiếp nạn, trong xa xăm giống như có một bàn tay lớn che mưa che gió cho bọn họ.

Trương Quả nói:
- Người có tư chất tốt nhất trong đó là tiểu khuê nữ của bang Đại Trạch, cháu gái của Trúc Phụng Tiên, hôm nay đã là luyện khí sĩ cảnh giới thứ ba, chắc là người duy nhất có tư chất địa tiên. Tiếp theo là tiểu cô nương của nhà Yên Chi, có hi vọng cảnh giới Động Phủ, nhiều nhất là cảnh giới Quan Hải. Ngoại trừ Trúc Tử Dương và Lưu Thanh Thành, trong bảy người còn lại, ta thấy không ai có thể bước vào năm cảnh giới trung.

Vi Lượng và Khương Uẩn đồng thanh nói:
- Chưa chắc.

Ánh mắt Trương Quả sáng lên:
- Là người nào?

Vi Lượng chỉ cười không nói.

Khương Uẩn ngẩng đầu lên, cũng không trả lời, lại thay đổi đề tài, hỏi Vi Lượng:
- Yêu vật thuộc trâu đất kia, ngươi không quan tâm sao? Chẳng phải từ lâu ngươi đã muốn thu nó vào dưới trướng, để nó làm vật cưỡi của thần linh Bắc Nhạc nước Thanh Loan các ngươi?

Vi Lượng lắc đầu nói:
- Bỏ đi, chuyện cơ duyên chỉ có thể thuận thế mà làm, cố bẻ dưa thì sẽ không ngọt. Thần linh Bắc Nhạc đã sớm nói với ta, con trâu đất này nhìn như hiền lại vô hại, nhưng thực ra tính tình mạnh mẽ. Yêu vật cảnh giới Long Môn, có ai muốn bị gò bó ở một ngọn núi, cả đời bị một vị thần linh núi cao cưỡi lên người? Vào thần đạo rồi, đây chính là kết cục vĩnh viễn không thoát thân được. Một khi kích phát hung tính của nó, đối với núi sông Bắc Nhạc sẽ là họa chứ không phải phúc.

Trương Quả tấm tắc nói:
- Nếu yêu này có thể trấn giữ núi Thanh Yêu của bần đạo, sẽ là một chuyện tốt đôi bên cùng có lợi. Chẳng qua là hai bên ngang vai ngang vế, Kim Quế quán sẽ xem nó như cung phụng hộ sơn. Vi đại đô đốc, ngươi cảm thấy khả thi không?

Vi Lượng vẫn lắc đầu, ánh mắt thâm trầm, mỉm cười nhắc nhở:
- Ngươi tốt nhất đừng trêu chọc Trần Bình An kia. Người này sau khi rời khỏi động tiên Ly Châu, rất có thể đã thành môn hạ đệ tử của một vị cao nhân Pháp gia. Chắc ngươi biết rõ phong cách hành sự của đệ tử Pháp gia chúng ta, trên núi dưới núi đều đối xử như nhau.

Trương Quả bất đắc dĩ nói:
- Biết rồi, tứ đại quỷ khó dây trên núi, bao gồm kiếm tu rắm chó, người nợ đao của Mặc gia, đạo sĩ của phòng Sư Đao, cuối cùng là đệ tử Pháp gia các ngươi không nói lý nhất.

Vi Lượng cười hỏi:
- Chúng ta không nói lý?

Trương Quả hơi chột dạ, đột nhiên cười nói:
- Vậy sao Vi đại đô đốc ngươi không nói lý với yêu vật trâu đất kia đi?

Vi Lượng hờ hững nói:
- Pháp lý thế gian, dùng người làm gốc.

---------

Chú thích:

(1) Tam đô ngũ chủ thập bát đầu: những chức vị trong chế độ thập phương tùng lâm của Đạo giáo.

Tam đô bao gồm đô quản, đô giảng, đô thụ.

Ngũ chủ bao gồm đường chủ, điện chủ, kinh chủ, hóa chủ, tĩnh chủ.

Thập bát đầu bao gồm khố đầu, trang đầu, đường đầu, chung đầu, cổ đầu, môn đầu, trà đầu, thủy đầu, hỏa đầu, phạn đầu, thái đầu, thương đầu, ma đầu, niễn đầu, viên đầu, đoàn đầu, đàn đầu, tịnh đầu. Căn cứ theo tùng lâm (cung quán) lớn hay nhỏ để bố trí. 

 Trong phòng của Trần Bình An, Bùi Tiền đang chép sách.

Trương Sơn Phong cần cù tu hành trong phòng kế bên. Đạo sĩ trẻ tuổi này của Bắc Câu Lô Châu, tự đánh giá là tư chất bình thường. Năm xưa sư phụ chỉ thương hại hắn không chỗ để đi, mới miễn cưỡng thu làm đệ tử thân truyền. Hơn nữa đường tu hành sau này cũng chứng minh ánh mắt của sư phụ hắn không sai, Trương Sơn Phong quả thật tiến triển chậm chạp, hôm nay còn chưa bước vào năm cảnh giới trung.

Có điều Trương Sơn Phong tâm tính kiên trì, chưa từng nhụt chí, thỉnh thoảng tỏ ra mất mát, chỉ là phản ứng đối với bản lĩnh không tốt của mình mà thôi. Trong chuyện này thái độ của hắn rất giống với Trần Bình An, chẳng qua là đường dưới chân tự mình đi, chỉ cần không so sánh với người khác, sẽ không quan tâm thiên phú tốt xấu nữa, ngược lại có thể đi một cách kiên định trầm ổn.

Cái gọi là thiên phú tố chất của luyện khí sĩ rất có nghiên cứu, huyền cơ đều nằm ở hai chữ “bẩm sinh”. Thiên phú cao thấp sẽ quyết định động phủ mở ra lớn hay nhỏ, dung nạp linh khí nhiều hay ít.

Ngoại trừ chuyện này, thiên phú cao thấp cũng quyết định tốc độ hấp thu nhanh hay chậm. Trong sự nhanh chậm đó, còn có mức độ tinh luyện linh khí, sẽ quyết định xem là khe suối róc rách đáng thương, hay là sông lớn cuồn cuộn khiến người ta kinh ngạc. Sau khi nghiên cứu thiên phú, mới có thể tiến một bước nghiên cứu tình trạng cao thấp của buồng đan, cùng với phẩm chất của nguyên anh trong tương lai.

Hôm nay Trần Bình An thường luyện tập tư thế trời đất kỳ quặc kia, dùng ngón tay chống xuống đất. Có điều luyện quyền lâu như vậy, hắn cũng nghĩ ra được một chút đường lối. Chẳng hạn như đồng thời luyện ba thế Hám Sơn quyền, dùng thế trời đất để đi thế sáu bước, một tay bấm pháp quyết, trong lúc đó lại vận chuyển kiếm khí Thập Bát Đình.

Đúng là một chân trời mới.

Có điều cũng phải trả giá một chút. Trên đường hẹp giữa rừng núi xung quanh không người, Trần Bình An thường “đi” sai đường, lệch khỏi con đường mà mọi người đang đi, ngã vào khe suối hoặc rơi xuống sườn núi.

Sau đó vẫn là Bùi Tiền nghĩ ra một biện pháp ngu ngốc, buộc dây thừng vào đầu gậy leo núi, lại cột vào hồ lô nuôi kiếm bên hông Trần Bình An. Bùi Tiền đi ở phía trước, kéo theo Trần Bình An, đương nhiên hôm nay cô cũng phải luyện tập sáu bước đi thế.

Một lớn một nhỏ, một trước một sau đi tới như vậy, quả là người cùng đường đúng như ý nghĩa.

Lúc này Trần Bình An đang trồng chuối “đi” vòng quanh bàn.

Bùi Tiền chép sách xong, đã nhìn thế trời đất của Trần Bình An vô số lần, nhưng vẫn cảm thấy rất thú vị.

Trần Bình An lộn người lại, hít thở sâu một hơi.

Tại thành Lão Long, sau khi bị Thuyền Nuốt Kiếm của Đỗ Mậu “một kiếm” xuyên bụng, đến bến thuyền Phong Vĩ, rồi đến Kim Quế quán nước Thanh Loan này, thực lực của hắn từ cảnh giới thứ ba đã dần dần khôi phục đến cảnh giới thứ tư. Muốn đạt đến cảnh giới thứ năm đỉnh cao, còn phải dựa vào đi thế và rượu thuốc tiểu luyện, cùng với nghỉ ngơi không ít thời gian.

Chuyện này có lợi cũng có hại, cái hại đương nhiên là trì hoãn tốc độ bước vào cảnh giới thứ sáu, chỗ tốt lại là cơ sở cảnh giới thứ năm sẽ vững chắc hơn.

Chu Liễm đã từng nói đùa, cho dù không dựa vào ngoại vật, hai bên dùng thực lực của võ phu thuần túy, Trần Bình An vẫn có thể dùng cảnh giới thứ năm đỉnh cao của hắn, chiến thắng cảnh giới thứ sáu đỉnh cao của bốn người bọn họ.

Đối với chuyện này, Tùy Hữu Biên xì mũi coi thường, Lư Bạch Tượng lại khá đồng ý. Còn như Ngụy Tiện vốn khó đoán, khi đó đang bận tán gẫu với Bùi Tiền.

Trần Bình An ngồi trở về bên cạnh bàn, kiểm tra nội dung Bùi Tiền sao chép, sau khi xác nhận không miễn cưỡng qua loa, mới ra hiệu cho cô bé có thể đi chơi.

Bùi Tiền lặng lẽ nói:
- Sư phụ, con cảm thấy những cây quế phía sau đạo quán, kém xa lá quế cành quế mà dì Quế tặng cho chúng ta, sao những đạo sĩ kia lại xem như bảo vật? Còn nói khoác mà không biết ngượng, bảo là “trồng trên cung trăng” gì đó. Nếu đây là con cháu đời sau của cây quế trên cung trăng, vậy dì Quế của chúng ta còn không phải là thần tiên trên đó à?

Trong lòng Trần Bình An khẽ động, nói:
- Không được nói xấu sau lưng người khác.

Bùi Tiền “à” một tiếng.

Trần Bình An đột nhiên cười lên, nói:
- Có điều ta cảm thấy ngươi nói không sai.

Bùi Tiền tươi cười rạng rỡ:
- Sư phụ cũng cảm thấy như vậy đúng không? Con đã nói rồi mà.

Trần Bình An ngưng cười, dặn dò:
- Cho nên lần sau gặp lại dì Quế, phải lễ độ hơn.

Bùi Tiền gật đầu nói:
- Đương nhiên rồi, dì Quế là người mà con thật lòng yêu mến.

Trần Bình An trêu chọc:
- Còn đạo đồng nhỏ của Kim Quế quán cho ngươi mượn ô che mưa thì sao?

Bùi Tiền đập bàn một cái, nổi nóng nói:
- Tên này rất phiền phức, nếu con và hắn gặp nhau trong ngõ hẹp, không có người ngoài ở đó, con muốn đánh cho cha mẹ sư phụ hắn cũng không nhận ra.

Trần Bình An cười nói:
- Bây giờ biết phiền phức rồi à? Ngươi ngẫm lại xem, mình đã quấy rầy Ngụy Tiện và Lư Bạch Tượng thế nào?

Bùi Tiền mở to mắt, suy nghĩ cả buổi, đành phải lấy lá bùa bảo tháp trấn yêu mà mình thích nhất ra, dán vào trên trán, thở dài nói:
- Nói như thế, lão Ngụy và Tiểu Bạch đúng là đáng thương.

Trần Bình An gõ đầu một cái, giả vờ cả giận nói:
- Ngươi mới biết à? Trong sách có nói “quân tử phải kiểm điểm bản thân nhiều lần”, ngươi hãy tự xét lại mình một chút.

Bùi Tiền ôm đầu, đột nhiên đứng lên, chạy đến cửa phòng, quay đầu cười nói:
- Sư phụ, con đi nói với lão Ngụy và Tiểu Bạch một tiếng. Lần sau ra chợ, con sẽ móc tiền túi, mua cho bọn họ mỗi người một xâu mứt quả gì đó.

Sau khi Bùi Tiền rời đi, Trần Bình An bắt đầu suy nghĩ chuyện luyện hóa vật bản mệnh thứ hai.

Còn về thân xác dương thần của Đỗ Mậu tương đương với kim thân cảnh giới Tiên Nhân, hắn quyết định chờ đến thư viện Sơn Nhai Đại Tùy, hỏi ý kiến của Thôi Đông Sơn vốn tinh thông chuyện này, sau đó mới đưa ra quyết định.

Từ đáy lòng Trần Bình An không tin tưởng tính cách của vị “thiếu niên quốc sư” này, nhưng dù sao vẫn tin tưởng học vấn kiến thức của đồ đệ đầu tiên của Văn Thánh năm xưa.

Lần này gặp lại Trương Sơn Phong, Trần Bình An đã thỉnh giáo không ít chuyện tu hành, nhất là những chuyện liên quan đến luyện hóa vật bản mệnh. Trương Sơn Phong đương nhiên là nói hết những gì mình biết.

Mặc dù tu vi của Trương Sơn Phong không cao, nhưng ánh mắt và kiến giải đều không tầm thường, có lẽ là do xuất thân từ tiên gia chính thống, dù sao sư phụ của hắn cũng là thiên sư khác họ của núi Long Hổ. Tuy nói cảnh giới của thiên sư khác họ cũng có cao có thấp, nhưng đạo nhân có thể được ghi vào gia phả cao quý của phủ Thiên Sư sẽ không đơn giản.

Trần Bình An lấy một bình rượu hoa quế ra, tìm một cái ly, uống rượu một mình.

Theo như Trương Sơn Phong nói, ngay cả khi tài lực và cơ duyên không phải là vấn đề lớn, vật bản mệnh cũng không hẳn càng nhiều càng tốt, mà là phải tập hợp đủ ngũ hành.

Một vật bản mệnh tương tự bình sứ xanh của trâu đất màu vàng, dùng để trợ giúp hấp thu linh khí trời đất, đây là thứ nhất định phải có. Một món dùng để chém giết công phạt, chẳng hạn như phi kiếm bản mệnh của kiếm tu, chính là cực hạn của vật bản mệnh công phạt trên thế gian. Một món dùng để phòng ngự, công hiệu tương tự pháp bào Kim Lễ, giáp viên Binh gia.

Một vật một tấc hay một thước, giống như kho vũ khí một tấc hay mộ kiếm một thước. Có điều đồ vật quý hiếm như vậy, gần như không thể gặp, càng không thể cầu. Cuối cùng là một món đồ trấn áp nuôi dưỡng trong khiếu huyệt bản mệnh, vật này bẩm sinh có sức chấn nhiếp với yêu ma quỷ quái, hơn nữa có thể không ngừng tăng trưởng dương khí bản thân. Khi đi qua những nơi âm tà khó đoán, có thể khiến cho chủ nhân nước lửa bất xâm, dơ bẩn tránh xa.

Trương Sơn Phong còn nói luyện hóa vật bản mệnh là con dao hai lưỡi. Đã là vật bản mệnh, một khi bị tổn hại sẽ khiến cho cơ sở đại đạo lung lay, hậu quả không thể tưởng tượng. Hơn nữa mỗi vật bản mệnh phải chiếm cứ một khiếu huyệt phủ đệ, một khi thật giả lẫn lộn, hoặc là không suy nghĩ tuyến đường linh khí vận hành, sẽ dễ khiến cho thuộc tính xung khắc, làm trở ngại luyện khí sĩ tu hành, thậm chí có thể tẩu hỏa nhập ma.

Cuối cùng Trương Sơn Phong nói, gom đủ vật bản mệnh ngũ hành là điều mà tất cả luyện khí sĩ ngoài kiếm tu đều ước mong, nhưng không cần cố hết sức theo đuổi chuyện này, bởi vì quá hao tốn tiền thần tiên, quá coi trọng cơ duyên. Thông thường mà nói, có ba vật bản mệnh phẩm chất khá tốt là đủ rồi, một công một thủ, cùng với một món trợ giúp luyện khí sĩ hấp thu tích lũy linh khí. Phần lớn luyện khí sĩ năm cảnh giới trung trong thiên hạ đều như vậy, trừ khi là địa tiên mới theo đuổi nhiều hơn.

Nghe Trương Sơn Phong giảng giải, Trần Bình An đã thu được rất nhiều lợi ích.

Bên trong hộp gỗ màu xanh kia, nghe nói có “pháp ấn bảo hộ thành hoàng quận Yên Chi nước Thải Y”, do đại thiên sư đời nào đó của núi Long Hổ tự mình khắc thành. Từ khi lấy được pháp ấn tới nay, Trần Bình An chưa từng mở hộp gỗ màu xanh ra lần nào. Hắn quyết định dùng nó làm lễ vật chia tay, tặng cho vị thiên sư khác họ tương lai của núi Long Hổ là Trương Sơn Phong.

Thành hoàng gia Thẩm Ôn của quận Yên Chi rất coi trọng pháp ấn này, Trần Bình An suy đoán rất có thể là một món nửa tiên binh. Thẩm Ôn từng chính miệng nói, dùng ấn này phối hợp với ngũ lôi chính pháp đích truyền của núi Long Hổ, sẽ có uy lực kinh người.

Ban đầu pháp ấn bị phong kín trong lầu thành hoàng, vẫn ngăn cản được tà khí của bãi tha ma rộng lớn bên ngoài quận thành Yên Chi, có thể thấy cấp bậc của nó cao thế nào, chắc chắn không chỉ là pháp bảo.

Trần Bình An hơi do dự, không biết có nên luyện hóa văn mật màu vàng của thành hoàng gia quận Yên Chi nước Thải Y hay không.

Sở dĩ do dự, là vì lúc trước trong trận chiến ở nước Thải Y, hắn đã lấy được một cái chén trắng vẽ hình Ngũ Nhạc nước Cổ Du, có thể tạo ra đất xã tắc năm màu. Hắn đã nghe theo đề nghị của Từ Viễn Hà, không bán nó cho phường Thanh Phù. Trần Bình An đang suy nghĩ, có nên dùng chén trắng lợi nhuận hàng năm là “năm đồng tiền hoa tuyết”, làm vật bản mệnh ngũ hành thổ của mình hay không.

Hôm nay kỵ binh Đại Ly xuôi nam đã là thế như chẻ tre. Phía bắc có thần Bắc Nhạc Ngụy Bách ở núi Phi Vân quê nhà mình, phía nam hình như là Nam Nhạc mới của Đại Ly do Phạm Tuấn Mậu trấn giữ. Một khi chuyện này trở thành sự thật, lãnh thổ của vương triều Đại Ly sẽ trải khắp một châu, đất năm màu sẽ trở nên cực kỳ quý giá, đến lúc đó triều đình Đại Ly nhất định sẽ kiểm soát rất chặt chẽ.

Nếu bây giờ Trần Bình An có thể xác định vị trí ba ngọn núi Nhạc còn lại ngoại trừ nam bắc, tập hợp đủ đất năm màu, lại tìm một món đồ thích hợp để chứa, lợi nhuận chắc chắn sẽ rất lớn.

Nhưng chỗ khó xử là không biết ba ngọn núi Nhạc kia nằm ở phương nào. Dùng thứ này làm vật bản mệnh, sẽ thu được lợi nhuận to lớn trong ngắn hạn, nhưng họa ngầm là phải phụ thuộc vào quốc thế Đại Ly lên hay xuống. Có điều đối với luyện khí sĩ dưới năm cảnh giới cao, chắc chắn là lợi nhiều hơn hại, có thể khiến bọn họ nhanh chóng trở thành địa tiên.

Lúc này Trần Bình An uống rượu, lại nhớ tới nhóm trinh sát Đại Ly trong gió tuyết, còn nghĩ đến hàng xóm Tống Tập Tân ở kế bên nhà tổ ngõ Nê Bình.

Sau khi uống cạn một chút rượu hoa quế cuối cùng trong ly, Trần Bình An quyết định từ bỏ chuyện luyện hóa đất xã tắc năm màu.

Đã có quyết định, hắn cũng không do dự nữa, chuẩn bị luyện hóa văn mật màu vàng. Có điều muốn chiếm được thiên thời địa lợi nhân hòa giống như ở thành Lão Long, khó như lên trời.

Trần Bình An đứng lên, đi tới bên cạnh cửa sổ, nằm trên thành cửa, ngơ ngơ ngẩn ngẩn.

Chuyện này dù sao cũng không giống như luyện quyền, chỉ cần kiên trì bền bỉ, một ngày nào đó sẽ có thể đánh xong một triệu quyền.

Từ Viễn Hà gõ cửa đi vào. Trần Bình An ngồi trở về bên cạnh bàn, lại lấy một ly rượu, hai người cùng uống.

Từ Viễn Hà cũng không nói chuyện quan trọng gì, chỉ hi vọng một ngày nào đó sẽ có tiệm sách chịu in quyển du ký núi sông của ông ta, kiếm được một chút vốn liếng.

Trần Bình An bèn lấy ra mấy thẻ trúc xanh có khắc chữ chi chít, ghi lại những gì nghe và thấy trên đường, đưa cho Từ Viễn Hà. Trong đó có những chiếc thuyền tiên gia to lớn như đảo Quế Hoa và rùa Sơn Hải của thành Lão Long, cùng với biển mây phía trên thành trì, tượng thần vũ sư của tông môn trên biển, giao long già làm mưa cố gắng rơi xuống biển gần khe Giao Long, những bức tranh kiếm tiên trong nhà Linh Chi núi Đảo Huyền, đường phi ngựa ở Kiếm Khí trường thành, đường Hảm Thiên ở Phù Kê tông Đồng Diệp châu, mặt trời mọc ở đỉnh Chiếu Bình bên ngoài thành Thận Cảnh.... 

Hai người uống rượu, thảo luận chi tiết về những kiến thức trên thẻ trúc, thời gian trôi qua trong bữa rượu.

Trong phòng kế bên, đạo sĩ trẻ tuổi Trương Sơn Phong vừa kết thúc tĩnh tọa thổ nạp, bắt đầu chậm rãi đánh quyền. Bộ quyền pháp này khác với phần lớn quyền pháp trong thiên hạ, chỉ cầu chậm không cầu nhanh, không thích hợp giết địch, đại khái chỉ có thể dùng để luyện quyền dưỡng sinh. Có điều Trương Sơn Phong cảm thấy rất phù hợp với bằng hữu của mình.

Bộ quyền pháp này là do hắn tự nghĩ ra, hôm nay chỉ là hình thức ban đầu, quyền lý đến từ những lời say của sư phụ và cảm ngộ của bản thân hắn. Cũng không biết Trần Bình An có chê bai hay không, có chịu học hay không.

---------

Trong hoàng hôn ở kinh thành nước Thanh Loan, có hai vị nho sĩ áo xanh đường xa tìm đến, ngồi bên cạnh một chiếc bàn nhỏ có khá nhiều cặn dầu, đặt ở một gian hàng ven đường. Trên bàn có một cái ống trúc chứa đầy đũa trúc.

Trong đó có một vị nho sĩ gầy gò khoảng ba mươi tuổi, vốn quen thuộc với tính tình của đối phương, vì vậy nghiêm túc nói:
- Chu Cự Nhiên, trước tiên phải nói rõ, ta không ăn cay được.

Nho sĩ trẻ tuổi tên là Chu Cự Nhiên cười nói:
- Hầu Tử (con khỉ), bởi vì không ăn cay, cho nên ngươi đã bỏ lỡ rất nhiều thức ăn ngon của nhân gian.

Nho sĩ gầy gò bị gọi đùa là “Hầu Tử”, bất đắc dĩ lắc đầu.

Đoạn đường này thật sự khiến hắn kinh hồn bạt vía. Chẳng có cách nào, tên Chu Cự Nhiên này đúng là kẻ chuyên gây họa, đúng sai thị phi trong lòng tên này luôn mơ hồ hơn những hiền nhân khác của thư viện. Có điều may mà mình vẫn có thể chấp nhận được.

Lần này hoàng đế họ Đường nước Thanh Loan khăng khăng làm theo ý mình, muốn cử hành Phật Đạo tranh luận, bên thắng sẽ trở thành quốc giáo, địa vị còn cao hơn cả Nho gia.

Hiện giờ sự chú ý của thư viện Quan Hồ bọn họ đều tập trung vào thiên quân Đạo gia Tạ Thực của Bắc Câu Lô Châu, không rảnh chiếu cố chuyện ở nơi này. Nếu không Hầu Chính hắn và Chu Cự Nhiên, một quân tử và một hiền nhân, sẽ không phải “du lịch khắp nơi” ở nước Thanh Loan, mà là chạy thẳng tới hoàng cung, khiển trách vị hoàng đế họ Đường kia một phen rồi.

Chu Cự Nhiên gọi hai phần mì Phiến Nhi Xuyên (2) đặc sản địa phương, một phần thêm cay, một phần không cay, bắt đầu ăn với “Hầu Tử” đến từ thành Lão Long.

Hiền nhân trẻ tuổi ở bên ngoài thích tự xưng là Chu Cự, cuốn một đũa Phiến Nhi Xuyên bỏ vào trong miệng, nói hàm hồ không rõ:
- Nghe tiên sinh nói, lần này Phật Đạo tranh luận ở nước Thanh Loan có điểm mới mẻ. Đối ngoại thì nói là Phật môn và Đạo gia mỗi bên cử ra mười vị cao tăng và chân nhân, tranh cãi ở hoàng cung, xem bản lĩnh cãi nhau của ai lớn hơn. Nhưng chân chính quyết định thắng bại, lại là âm thầm sắp xếp một đạo sĩ và một nhà sư tranh luận với nhau, xem thử Phật pháp Đạo pháp của ai cao hơn.

- Bọn họ còn mời một lão nhân của họ Khương Vân Lâm làm quan tổng tài, lại nhờ hai vị địa tiên dùng thần thông quan sát toàn bộ quá trình. Đã phải phân ra thắng bại giữa kinh phật và đạo tạng (kho kinh sách của Đạo giáo), còn phải so sánh đối nhân xử thế và công lao khuyến thiện. Học vấn, tu thân, giáo hóa, vừa lúc so đấu ba trận.

Hầu Chính nhíu mày, đây là lần đầu tiên hắn nghe Chu Cự Nhiên nói đến nội tình này. Sau khi suy nghĩ một lúc, chân mày của hắn giãn ra, nói:
- Chẳng trách sơn chủ lại không tức giận. Đá ở núi khác có thể mài ngọc, hành động này của nước Thanh Loan, thực ra cũng không hoàn toàn là chuyện xấu.

Chu Cự Nhiên hiểu ngầm khẽ cười, cầm đũa chỉ chỉ vào nho sĩ đối diện, khen ngợi:
 - Điểm này của Hầu Chính ngươi đúng là hợp với tính cách của ta, có thể nghĩ thoáng, hơn nữa còn nghĩ theo hướng tốt.

Hầu Chính lắc đầu không nói gì.

Chu Cự Nhiên hỏi:
- Thành Lão Long xảy ra chuyện lớn như vậy, ngươi không về thăm nhà một chút sao?

Hầu Chính vẫn lắc đầu:
- Đi cũng vô dụng. Gia phong tổ tiên họ Hầu truyền xuống vốn còn lại không nhiều, giống như ngọn đèn sắp tắt mà thôi. Ta đi chuyến này chỉ khiến cho ngọn lửa ở tim đèn sáng hơn một chút, sau đó sẽ tắt nhanh hơn, còn không bằng giữ nguyên dở sống dở chết như vậy. Chỉ hi vọng xuất hiện một vãn bối có thể gánh vác được, đến lúc đó ta sẽ giúp đỡ một tay.

Chu Cự Nhiên gật đầu nói:
- Vẫn là ngươi suy nghĩ chu đáo.

Hầu Chính cười khổ nói:
- Dù sao cũng sinh ra và lớn lên ở đó, ta có thể không nghĩ nhiều một chút sao?

Chu Cự Nhiên dừng đũa, hỏi:
- Ngươi ăn no chưa?

Hầu Chính nhìn cái tô trắng trống rỗng trước mặt đối phương, ngay cả nước cũng không còn lại chút gì, bèn không để ý tới Chu Cự Nhiên nữa, vùi đầu ăn mì.

Chu Cự Nhiên than vãn một tiếng, quay đầu gọi:
- Ông chủ, thêm một tô nữa... nhớ bỏ ít cay một chút, tiệm này của ông đúng là cay chết người không đền mạng.

Trên đường lớn có phu nhân đội khăn và cô gái tuổi xuân dạo chơi ngoại thành trở về. Chu Cự Nhiên thở dài nói:
- Mỹ nhân du xuân trở về, có một chút mùi mồ hôi, cộng thêm mùi hương thoang thoảng từ rừng núi ao hồ, thật là thơm.

Hầu Chính ngoảnh mặt làm ngơ.

Chu Cự Nhiên lại nói:
- Hay là ta cũng tham gia ván cờ này, dứt khoát khiến Phật Đạo tranh luận của nước Thanh Loan, biến thành một trận tam giáo tranh đấu nho nhỏ?

Lần này Hầu Chính trả lời rất nhanh, cũng không ngẩng đầu lên, hờ hững nói:
- Không được.

Chu Cự Nhiên đập tay xuống bàn, gọi:
- Ông chủ, cho thật cay vào!

---------

Cách gian hàng hiền nhân và quân tử thư viện ngồi ăn Phiến Nhi Xuyên không xa, có một tòa Bạch Vân quán thanh danh không lớn. So với những đạo quán cổ xưa ở nước Thanh Loan, hở một chút là mấy trăm năm đến ngàn năm lịch sử, Bạch Vân quán này từ khi xây dựng đến nay chỉ hơn trăm năm. Mà những khu vực có phong thủy tốt ở kinh thành, đã sớm bị những đạo quán chùa chiền “tiền bối” kia đến trước lấy trước, phân chia hầu như không còn.

Quán chủ là một đạo sĩ trung niên, danh tiếng không nổi bật ở nước Thanh Loan. Nếu chỉ xem như một người tu hành thì càng không đáng nhắc tới, bởi vì ông ta còn không phải là luyện khí sĩ năm cảnh giới trung.

Bạch Vân quán chỉ lớn như miếng đậu hủ, buộc phải nằm gần một phường thị ồn ào. Trong quán vẫn có mấy cây cổ thụ, nhưng một chút của cải miễn cưỡng cầm ra được như vậy, lại gây cho Bạch Vân quán rất nhiều phiền phức.

Trẻ con ở phường thị gần đó thích thả diều, hay bị vướng vào cây to trong quán. Cho nên thường có phu nhân hoặc đàn ông dẫn con cái nhà mình khóc sướt mướt, đứng bên ngoài Bạch Vân quán mắng chửi. Có người còn xông vào đạo quán, trách mắng những tiểu đạo sĩ rụt rè kia, bảo bọn họ bắc thang trèo lên cây lấy lại con diều đứt dây.

Mỗi lần xảy ra chuyện này, quán chủ trung niên hình dáng tiều tụy kia đều sẽ rời khỏi thư phòng, nhưng chỉ dám mặt ủ mày chau đứng ở phía xa, mặc cho sư đệ hoặc đệ tử của mình đứng ra ngăn cản.

Có một lần đạo đồng nhỏ của Bạch Vân quán lén chạy ra ngoài, chơi thả diều với trẻ con hàng xóm quen biết, không cẩn thận cũng bị vướng vào cây trong quán. Hắn đấu tranh trong lòng một phen, thật sự tiếc con diều kia, đành phải kiên trì nói với đạo quán.

Kết quả lại bị quán chủ tóm lấy trút giận, đánh cho hắn thiếu chút nữa cái mông nở hoa. Có điều hôm đó đạo đồng nhỏ lại cười như nở hoa, bởi vì trong chăn của hắn không biết vì sao lại có thêm một con búp bê bằng sứ thèm thuồng rất lâu. Chuyện này khiến hắn có thể khoe khoang với những đạo đồng khác một thời gian rất dài.

Lúc này đã là chiều hôm thâm trầm, đạo sĩ trung niên trong thư phòng nhỏ ngẩng đầu lên. Bởi vì nhìn chăm chú vào những văn tự trong thời gian dài, khiến cho mắt của ông ta hơi nhức nhối.

Bốn vách của thư phòng có hai mặt là giá sách, ngoại trừ “đạo tạng” phong phú, còn xen lẫn không ít kinh Phật và kinh điển Nho gia.

Đạo sĩ trung niên đã xem kỹ những điển tịch này, chỉ riêng tâm đắc đọc sách trong những năm qua, đã viết đầy bản thảo hơn chín mươi vạn chữ.

Người khác tu hành là vì khinh thường vương hầu, ngạo mạn công khanh, vì chứng đạo trường sinh bất hủ, vì thoát khỏi lồng giam lớn của trời đất. Còn quán chủ của đạo quán nhỏ này, lại là vì có thể sống lâu thêm mấy năm, xem thêm một ít sách.

Thư tịch thánh hiền của tam giáo các nhà, đều muốn xem hết.

---------

Mặc dù nhóm người Trần Bình An xem như đang ở nhờ dưới mái hiên bang Đại Trạch, nhưng Trúc Phụng Tiên không hề tới cửa lôi kéo làm quen. Chỉ đến sáng sớm ngày dự lễ, mới gọi Trần Bình An cùng nhau lên đường, đi tới Kim Quế quán trên đỉnh núi.

Trên đường lên núi, Trúc Phụng Tiên đi kề vai với Trần Bình An, trò chuyện về phong thổ của nước Thanh Loan.

Đến cửa Kim Quế quán, Hứa Bá Thụy tươi cười nghênh đón, sắp xếp cho hai nhóm người Trúc Phụng Tiên và Trần Bình An, ngồi ở gần hàng trước địa điểm đạo quán thu đồ đệ.

Quán chủ lão thần tiên Trương Quả, cuối cùng đã thu nhận chín đệ tử, đương nhiên Trúc Tử Dương và Lưu Thanh Thành đều nằm trong số đó. Bảy người còn lại, có hai người là chị gái và em trai xuất thân dân gian, năm người khác đều là con cháu hào môn thế tộc ở ba nước Thanh Loan, Khánh Sơn và Vân Tiêu.

Cộng thêm ba đệ tử ban đầu bao gồm Hứa Bá Thụy, quán chủ Trương Quả đã có mười hai đệ tử đích truyền.

Đạo đồng nhỏ cho Bùi Tiền mượn ô, hôm nay đã trở thành sư huynh của chín đồng môn vào sau, đứng sau lưng Hứa Bá Thụy, cao hứng đến mức không khép miệng được. Hắn vội vàng nhìn về phía Bùi Tiền, lại phát hiện cô bé chẳng hề nhìn mình, liền cảm thấy hơi mất mát.

Nghi thức tiên sư Đạo môn thu đồ đệ, gọi là lễ nghi rườm rà cũng không quá mức, lại tốn đến gần một canh giờ.

Dự lễ xong, những người cầm đầu thế lực các phương như Trần Bình An, Trúc Phụng Tiên và bà lão nhà Yên Chi, đều được Kim Quế quán tặng một chiếc ô giấy dầu cán cành quế, giá trị không rẻ.

Trúc Phụng Tiên còn muốn ở lại sườn núi mấy ngày. Dù sao Trúc Tử Dương vừa mới trở thành đệ tử của Trương Quả Kim Quế quán, lỡ may lạ nước lạ cái, lão cũng không yên tâm xuống núi rời đi như vậy.

Xem xong buổi lễ thu đồ đệ, còn được tặng một chiếc ô cành quế. Sau khi phân biệt cáo từ Trúc Phụng Tiên và bà lão nhà Yên Chi, nhóm người Trần Bình An rời khỏi núi Thanh Yêu, men theo đường nhỏ giữa rừng núi yên tĩnh sâu thẳm tiếp tục lên đường, đi tới phủ đại đô đốc.

Trâu đất màu vàng cũng gia nhập đội ngũ, Bùi Tiền ngồi trên lưng nó.

Lúc trước Bùi Tiền lần đầu tiên đề nghị muốn cưỡi trâu đất, liền bị Trần Bình An gõ đầu một cái. Thế nhưng trâu đất lại không từ chối, để cho Bùi Tiền cưỡi lên lưng nó.

So với bốn người trong tranh cuộn ở đất lành Ngẫu Hoa, Trương Sơn Phong và Từ Viễn Hà càng biết nhiều chuyện trên núi hơn, cho nên rất ngạc nhiên với chuyện này.

Lại mười ngày trôi đi, nhóm người Trần Bình An đi qua một thôn trang ba mặt bị núi bao quanh. Lúc hoàng hôn khói bếp lượn lờ, ngói đen tường trắng, giống như bồng lai tiên cảnh.

Đám người Trần Bình An dọc theo đường nhỏ đi xuống triền núi, đến đầu thôn lại phát hiện không hiểu ngôn ngữ ở đây. Sau đó có một thầy giáo dạy học trong thôn chạy tới, dùng ngôn ngữ thông dụng Bảo Bình châu trúc trắc giao lưu với Trần Bình An.

Lúc này Trần Bình An mới biết, người trong thôn vừa khéo gần như đều là họ Trần, nhiều đời tập võ làm bảo tiêu. Nhưng dựa theo tổ huấn tộc quy, bất kể gia đình nghèo đến đâu, trẻ con đều phải học xong bốn năm ở trường mới được nghỉ học.

Tộc trưởng là một ông lão tuổi bảy mươi, mặc áo dài màu xám, chân đi giày vải, tinh thần quắc thước, bước đi như bay. Theo như thầy giáo trường học kia nói, trong phạm vi mấy trăm dặm này, lão tộc trưởng là người có võ nghệ tinh thâm, hơn nữa đức cao vọng trọng. Bởi vì năm xưa từng cản ngựa cứu trẻ con trong phường thị, cho nên được ca tụng là “Trần bài phường” (đền thờ họ Trần).

Ông lão vừa nghe Trần Bình An cũng họ Trần, lập tức cao hứng, nhiệt tình mời bọn họ đến nhà làm khách. Ông ta vốn đã ăn cơm tối xong, lại bảo trong nhà làm thêm một bàn thức ăn phong phú, còn mình thì xách một bình rượu cao lương tự ủ, kéo Trần Bình An uống rượu.

Mặc dù ông lão rất thích uống rượu, nhưng khi ngồi vào bàn lại không thích khuyên người khác uống rượu. Cứ như vậy, Trần Bình An lại uống đến hơi váng đầu. Cuối cùng hắn cũng không biết làm cách nào đi về phòng, hơn nửa đêm tỉnh lại, phát hiện mình đang nằm trên một chiếc giường lớn cổ kính xa lạ.

Trần Bình An vén chăn lên, mang giày đẩy cửa bước ra, ngẩng đầu lên, trông thấy đấu củng (3) tinh xảo, bèn cẩn thận nhìn ngắm một phen. Lúc trước ở đất lành Ngẫu Hoa, hắn từng xin quốc sư Chủng Thu rất nhiều thư tịch công bộ liên quan đến xây cầu. Trong đó có một bộ “tiêu chuẩn xây dựng”, Trần Bình An lật xem nhiều nhất, không chỉ cầu mà còn giới thiệu về những kiến trúc khác như nhà hay lầu các.

Nhà trong thôn phần lớn nối tiếp với nhau, cho nên hành lang rất dài, anh em sau khi tách ra lại ở sát bên.

Trần Bình An đi ra hành lang, dọc theo đường đá xanh đi thẳng tới bên cạnh một ao nước, đứng ở đó một đêm.

Thực ra cũng không nghĩ nhiều chuyện gì, chỉ là ngẩn người mà thôi.

Ngày hôm sau lại bị lão tộc trưởng nhiệt tình khó từ chối giữ lại.

Bùi Tiền mặc dù không biết tiếng địa phương, nhưng vẫn chơi đùa với một đám bạn cùng lứa. Lúc Trần Bình An đi gọi cô bé về ăn cơm, đám nhỏ đang chơi trò diều hâu bắt gà con.

Bùi Tiền bảo Trần Bình An chơi cùng, Trần Bình An cười gập hai ngón tay lại, giơ tay lên ra vẻ muốn gõ đầu. Nhưng cuối cùng không chịu nổi sự nài nỉ của Bùi Tiền, Trần Bình An đành phải làm gà mẹ bảo vệ gà con, Bùi Tiền thì làm diều hâu bắt gà con. Nhưng Bùi Tiền nào bắt được “gà con” ở sau đuôi nhóm Trần Bình An, thế là cô đổi vị trí với “gà con” kia, tiếp tục chơi đùa.

Trong sân tiếng cười của Bùi Tiền là lớn nhất.

Khói bếp lượn lờ, kèm theo ánh tà dương.

Trương Sơn Phong đứng ở phía xa, mỉm cười vẫy tay, ra hiệu đang chờ hai thầy trò bọn họ trở về ăn cơm. Còn có các trưởng bối đứng ở trước cửa, lớn tiếng gọi tên trẻ con nhà mình. Trần Bình An dắt tay Bùi Tiền đi về phía Trương Sơn Phong. Đám nhỏ cũng tản đi về nhà.

Khi ba người đi trong ngõ, phía trước đột nhiên xuất hiện một lão đạo nhân mũi ban đỏ, vóc dáng thấp bé, mặc một bộ đạo bào màu đen, hai tay áo mỗi bên thêu một con rồng lửa đỏ tươi sống động như thật.

Trương Sơn Phong ngẩn ra tại chỗ. Trần Bình An nín thở ngưng thần, như lâm đại địch. Bùi Tiền chỉ nhìn mấy lần, vội vàng nghiêng đầu đi không dám nhìn nữa.

Trương Sơn Phong bước nhanh tới trước, nghi hoặc hỏi:
- Sư phụ, sao ngài lại tới đây?

Ông lão trừng mắt nói:
- Nếu vi sư không tới bắt ngươi về núi tu đạo, có phải ngươi còn muốn ở bên ngoài lấy vợ sinh con, vươn cành tỏa lá?

Trương Sơn Phong quay đầu, bất đắc dĩ cười với Trần Bình An, ý tứ đại khái là sư phụ của ta tính tình như vậy, đừng quá để ý.

Lúc Trương Sơn Phong quay đầu, ông lão nhìn thấy vai của đồ đệ mình bị phi kiếm bản mệnh đâm thấu, lập tức giậm chân một cái, giận tím mặt nói:
- Ai dám tổn thương ngươi? Báo tên ra, vi sư... bây giờ sẽ đi quấn người cỏ của hắn!

Trương Sơn Phong đưa tay vuốt mặt một cái, gặp phải một sư phụ như vậy, đúng là không có mặt mũi nhìn Trần Bình An nữa.

Sắc mặt Trần Bình An nghiêm túc, ôm quyền chào vị lão đạo sĩ đến từ Bắc Câu Lô Châu này.

Lão chân nhân rồng lửa vốn là thiên sư khác họ của núi Long Hổ, gật đầu với Trần Bình An, dùng tiếng lòng dứt khoát nói với hắn: “Thằng nhóc, cầu trường sinh của ngươi bị người ta hủy rồi, đang xây dựng lại đúng không? Cũng hơi gập ghềnh. Có điều vật bản mệnh ngũ hành thủy mà ngươi luyện hóa hiện giờ, đúng là tiên khí đầy đủ. Ừm, không tệ, không tệ.”

Lão chân nhân lại nhìn Trương Sơn Phong, bảo hắn vươn tay ra, còn mình thì khép hai ngón tay lại, vẽ bùa trong lòng bàn tay Trương Sơn Phong. Sau khi bùa thành, ông ta vung tay áo lên, ánh sáng vàng lập lòe, trong nháy mắt lại tắt đi. Sau đó thanh Chân Vũ kiếm và đoản đao của Từ Viễn Hà vốn tạm thời để ở phủ đại đô đốc, bỗng nhiên rớt xuống trước mặt.

Trương Sơn Phong không hề ngạc nhiên, đưa tay cầm lấy Chân Vũ kiếm và đoản đao, không quên quay đầu giải thích với Trần Bình An:
- Sư phụ ta tu vi không cao, chuyện khác không biết, nhưng rất sở trường những thủ đoạn bất chính này.

Lão chân nhân vuốt râu cười, vẻ mặt đắc ý. Bị đệ tử thân truyền vạch khuyết điểm như vậy, lại không cho rằng sỉ nhục, ngược lại cho rằng vinh quang.

Trần Bình An nhìn Trương Sơn Phong, lại nhìn lão đạo sĩ hai tay áo thêu rồng lửa. Hắn tự hỏi liệu có phải Trương Sơn Phong quá dửng dưng với người bên cạnh, hiểu sai về sư phụ mình hay không.

Lão chân nhân nhìn như tùy tiện dùng mũi chân “nguệch ngoạc” dưới đất một trận, trên phiến đá xanh không có đấu vết gì, sau đó lại bảo Trương Sơn Phong đứng vào trong. Trương Sơn Phong muốn nói lại thôi. Lão chân nhân nói với giọng điệu chắc nịch:
- Vi sư muốn dẫn ngươi đến núi Long Hổ một chuyến.

Trương Sơn Phong đi vào trong “bùa chú” giống như không tồn tại kia, ném đoản đao trong tay cho Trần Bình An, cười khổ nói:
- Giúp ta xin lỗi Từ đại ca một tiếng, quá vội vàng, đành phải không từ mà biệt.

Trần Bình An chụp lấy đoản đao của Từ Viễn Hà, nhớ tới một chuyện, liền từ trong vật một tấc lấy ra hộp gỗ màu xanh, ném cho Trương Sơn Phong, nói:
- Bên trong là một pháp ấn của lầu Thành Hoàng quận Yên Chi nước Thải Y, tặng cho ngươi, tốt nhất là phối hợp với ngũ lôi chính pháp để sử dụng.

Trương Sơn Phong thấy hộp gỗ cổ xưa có vẻ rất bình thường, bèn yên tâm cất vào trong người.

Lão chân nhân đột nhiên híp mắt, trong phút chốc lại khôi phục bình thường, cười nói với Trần Bình An:
- Ngươi hãy nói một yêu cầu. Ta đếm tới mười, quá hạn không chờ.

Trần Bình An không hề do dự nói:
- Vậy làm phiền lão chân nhân truyền thụ cho Trương Sơn Phong một chút đạo pháp cao thâm, khẩn cầu lão chân nhân... dụng tâm một chút.

Lão chân nhân thoải mái cười lớn, đưa tay chỉ vào Trần Bình An, tấm tắc nói:
- Thằng nhóc giỏi lắm, bóng gió mắng người.

Ông ta đưa tay nắm lấy Trương Sơn Phong, thân hình hai người nhoáng lên rồi biến mất. Trần Bình An phát hiện linh khí mỏng manh xung quanh con ngõ không hề dao động.

Trần Bình An lâm vào trầm tư. Bùi Tiền kéo kéo ống tay áo của hắn, hỏi:
- Làm sao đây?

Trần Bình An khôi phục tinh thần, cười nói:
- Đi ăn cơm.

---------

Chú thích:

(2) Phiến Nhi Xuyên: một món mì nổi tiếng của Hàng Châu, được nấu với các loại nguyên liệu như rau cải, măng, thịt nạc thái miếng.

(3) Đấu củng: một loại kết cấu đặc biệt của kiến trúc Trung Hoa, gồm những thanh ngang từ trụ cột chìa ra gọi là củng và những trụ kê hình vuông chèn giữa các củng gọi là đấu.

Quay lại truyện Kiếm Lai [Dịch]
BÌNH LUẬN

Tiên Nhân [Chủ nhà]

Trả lời

2024-09-07 02:13:19

Tổng hợp các thanh phi kiếm đã từng xuất hiện của kiếm tu trong Kiếm Lai có thể còn thiếu sót thông tin và không phải bảng xếp hạng. - **Trảm Tiên**: Đây là bản mệnh phi kiếm của Ninh Diêu. Ninh Diêu cùng lúc dưỡng hai thanh kiếm là Trảm Tiên và Thiên Chân. Trảm Tiên được dùng để hỏi kiếm Thiên Chân, một trong bốn thanh tiên kiếm, đủ thấy phi kiếm này cường đại như thế nào. - **Trong Lồng Tước**: Đây là bản mệnh phi kiếm của Trần Bình An. Thanh phi kiếm này có được thần thông là tạo ra một tòa tiểu thiên địa. Phi kiếm "Trong Lồng Tước" không phải là vật chết trong sơn thủy trận pháp. Cùng với đó, Thánh Nhân trấn thủ thư viện, đạo quán, chùa miếu hoặc chiến trường di chỉ, lại khác biệt. Người sau trấn thủ sơn hà bản đồ, hầu như là cố định, nhưng Trần Bình An nhờ vào "Trong Lồng Tước" lại có thể di chuyển đến mọi nơi trong thiên địa. - **Trăng Trong Giếng**: Đây cũng là bản mệnh phi kiếm của Trần Bình An. Thanh phi kiếm này có được hai loại thần thông. Một là phi kiếm có thể hóa vạn kiếm thành người và vật trong cảnh tượng. Loại thần thông thứ hai là phi kiếm có khả năng sinh ra số lượng rất nhiều, có thể phỏng tạo ra một khoảng thời gian nhỏ. Một cái Trăng Trong Giếng, số lượng phi kiếm nhiều ít, cùng cảnh giới cao thấp có mối liên hệ trực tiếp. Ngoài ra, cũng có thể nhờ vào ăn kim tinh tiền đồng để tăng số lượng phi kiếm. Lý Hi Thánh từng nói: "Trong Lồng Tước bao dung thiên địa thập phương, Trăng Trong Giếng thành tựu thời gian sông dài, tập một ngàn tiểu thiên thế giới." - **Lục Bình (Thanh Bình)**: Đây là bản mệnh phi kiếm của Trần Bình An. Thanh phi kiếm này từng được sử dụng để chém chết 14 cảnh thuần túy kiếm tu của Hoàng Trấn. Mặc dù mượn nhờ Thượng Du và Hạ Du của Bạch Cảnh để mở đường và chặn đường, nhưng uy lực chém chết 14 cảnh chắc chắn không yếu. Thần thông của phi kiếm vẫn chưa được tác giả đề cập rõ. - **Bắc Đẩu**: Đây từng là bản mệnh phi kiếm của Lục Chi và sau đó được chuyển tặng cho Trần Bình An. Phi kiếm này chỉ có một loại thần thông "Bắc Đẩu chú chết," nghĩa là khi thấy kiếm này tế ra là nhận cái chết. Trần Bình An đã dùng kiếm này chém mất binh gia đầu tổ chân thân dương thần. - **Tiểu Phong Đô (Mùng Một)**: Thanh phi kiếm này do Văn Thánh lấy từ chỗ Tuệ Sơn đại thần rồi đưa lại cho Trần Bình An. Phi kiếm này hiện chưa có thần thông, nhưng lại là vật cần thiết để giúp tạo ra một cái nhỏ phong đô (Phong Đô là khu vực quản lý quỷ vật âm đức). Sau đó, được Trần đặt tên là Mùng Một. - **Mười Lăm**: Thanh phi kiếm này là của Thanh Đồng Tiên Quân trao cho Trần Bình An khi đổi lấy cây châm. Kiếm hiện tại chưa có thần thông, nhưng bản thân phi kiếm lại là một kiện phương thốn vật. Lý do kiếm này nhanh chóng chấp nhận Trần Bình An là vì có cùng một ý nghĩ "Nhanh." Điều này tương thông với Thập Ngũ kiếm ý, là tự nhiên tương thông. Thập Ngũ thanh phi kiếm này chính là nhanh, nhanh đến mức mà tất cả đối thủ không kịp trở tay, chiếm lấy tiên cơ. Tiên cơ vô địch giúp có thêm thời gian để cập nhật năm thanh mở đầu, bảy thanh.