Logo
Trang chủ

Chương 409: Những vui buồn ly hợp đong đưa trong lòng

 Thư viện đã thành trời đất nhỏ được thánh nhân trấn giữ, trên đỉnh núi Đông Hoa lại có một thế giới khác.

Sau khi Mao Tiểu Đông vận chuyển đại thần thông, cảnh sắc trên đỉnh núi lại là mùa thu.

Không khí trong lành mát mẻ, Trần Bình An ngồi ở hướng tây, trước người đặt lò luyện kim năm màu. Hắn dùng linh khí do Thủy phủ nuôi dưỡng để “quạt gió”, dùng một hơi chân khí võ phu thuần túy để “đốt lửa”, thúc đẩy từng chùm chân hỏa luyện vật bốc cháy hừng hực trong lò đan. Lò đan đột nhiên bừng sáng, giống như một vầng mặt trời giữa nhân gian. Viên văn mật màu vàng kia lơ lửng phía trên lò luyện, chậm rãi hạ xuống.

Trần Bình An cũng không xa lạ với chuyện này, hoàn thành từng bước. Hắn dùng pháp quyết luyện vật thoát thai từ bia tiên nhân cầu mưa trước miếu thủy thần sông Mai, điều khiển một hũ cát vàng lớn chừng bàn tay, rải vào trong trong lò luyện đan.

Thế lửa càng nhanh chóng, chiếu rọi gương mặt của Trần Bình An đỏ tươi sáng ngời, nhất là cặp mắt đã nhìn qua muôn vàn núi sông lại càng thanh tú. Đôi tay đã vô số lần nung gốm nặn phôi không hề run rẩy, nội tâm như gương, lại như giếng cổ không gợn sóng.

Viên văn mật màu vàng được thành hoàng gia Thẩm Ôn “mổ ra” từ ngực, nhấp nhô trong lò luyện đan, chậm rãi xoay tròn.

Nó được hương khói của thiện nam tín nữ nước Thải Y thấm nhuần mấy trăm năm, cũng có khí tức chính trực của văn thần Thẩm Ôn sau khi chết, giữ lại một hơi chân linh không tan. Còn có thần tính linh quang thai nghén ra, nhờ vào sớm chiều chung sống với con dấu do đại thiên sư núi Long Hổ tự tay khắc, từng đốm nhỏ như những ngôi sao khi trời vào đêm.

Trong rất nhiều thiên tài địa bảo, khó luyện hóa nhất là bội đao di vật của võ thánh thuộc võ miếu kinh thành một nước Bảo Bình châu, cùng với chiếc sừng trâu ngàn năm dài đến nửa trượng.

Tâm thần của Trần Bình An an tĩnh, từng bước ổn thỏa, từng bước không sai, dùng pháp quyết tiên nhân “có thể luyện hóa vạn vật” chậm rãi tiến hành.

Bội đao đã từng theo võ thánh kia chinh chiến một đời, lơ lửng phía trên lò luyện đan, dần dần tan rã. Từ mũi đao bắt đầu nóng chảy ra một giọt nước màu vàng, rơi vào trong lò luyện kim năm màu. Càng về sau thì tốc độ giọt nước rơi xuống càng nhanh, nối liền thành chuỗi. Nếu có người dùng phương pháp nội thị, đặt mình trong thế giới nhỏ của lò luyện đan, ngẩng đầu lên nhìn, sẽ thấy chuỗi giọt nước kia giống như một thác nước ngân hà màu vàng đổ xuống nhân gian.

Chủ đạo của kim là phổi. Mà muốn điều dưỡng phổi, người tu đạo đã sớm tìm ra một quy luật, ba huyệt Khí Hải, Thiên Trung và Phế Du đều rất quan trọng.

Lúc Trần Bình An hô hấp, không biết vô tình hay cố ý đã dùng phương thức vận chuyển của kiếm khí Thập Bát Đình, khiến khí tức thông qua ba kinh huyệt này. Ba quan ải lập tức xuất hiện kiếm khí dồi dào, da thịt bên ngoài cũng hơi nhấp nhô theo, giống như đánh trống sa trường.

Trên đỉnh núi Đông Hoa không nghe tiếng vang, thực ra trong thế giới nhỏ thân người, ba nơi chiến trường đã tràn đầy khí tức sát phạt, dùng kiếm khí làm chủ. Giống như ba di chỉ chiến trường to lớn, có những anh linh kiếm tiên không muốn nghỉ ngơi.

Luyện hóa hơn ba mươi món thiên tài địa bảo đều có thứ tự trước sau, nhất định phải cho vào lò đúng thời gian đã định. Độ lửa lớn nhỏ của lò luyện đan cũng không thể xuất hiện sai lầm.

Lúc này Mao Tiểu Đông là thánh nhân Nho gia trấn giữ thư viện, có thể dùng bí pháp thuần túy lên tiếng nhắc nhở, không cần lo lắng Trần Bình An phân tâm dẫn đến tẩu hỏa nhập ma. Có điều Trần Bình An lại không cho ông ta cơ hội này.

Trần Bình An vẫn luôn tập trung tư tưởng, tâm thần chuyên chú. Hắn dùng đạo quyết tiên nhân luyện vật khiến từng món thiên tài địa bảo từ thực hóa hư, dùng Thủy phủ kéo dài linh khí và chân khí thuần túy mới xuất hiện, cẩn thận điều khiển độ lửa của lò luyện đan, còn dùng kiếm khí Thập Bát Đình gia tăng thanh thế “sa trường” của ba kinh huyệt quan ải.

Bởi vì luyện hóa viên văn mật màu vàng này liên quan đến tu hành Nho gia, cho nên còn phiền phức hơn luyện khí sĩ bình thường luyện hóa vật bản mệnh, đó là phải mặc niệm một ít văn tự liên quan đến ngũ hành kim. Chẳng hạn như văn chương và thơ từ của thánh hiền có chữ “tây, thu, nhiên”, những câu này hơn phân nửa là Trần Bình An tự mình lựa chọn trên thẻ trúc, non nửa là Mao Tiểu Đông đề nghị trong thư phòng lúc trước.

Trong tu hành Nho gia, cửa ải này được gọi là “dùng lời tâm huyết, thăm viếng thỉnh giáo thánh hiền”.

Thực ra Mao Tiểu Đông khá lo lắng về công đoạn này.

Trên thực tế lần đầu tới văn miếu kinh thành Đại Tùy, ông ta chẳng những muốn lấy về phần được chia của thư viện Sơn Nhai, còn muốn mượn càng nhiều đồ dùng cũng tế, đó là vì sợ Trần Bình An luyện vật sẽ xảy ra sơ suất ở bước này.

Dù sao Trần Bình An chưa từng tiếp xúc với pháp môn tu hành của môn sinh thư viện Nho gia, hơn nữa lại không có đường tắt giấu trời qua biển. Chỉ có thể dùng văn vận dày đặc trong đồ vật của văn miếu để bù đắp, cố gắng phá cửa mà qua. Nhưng may mà Trần Bình An làm còn tốt hơn ông ta tưởng tượng.

Chuyện này nói lên Trần Bình An đọc sách là thật sự đọc vào. Người trí thức đọc đạo lý trong sách, thừa nhận lẫn nhau, trở thành cơ sở tạo dựng chỗ đứng của mình. Giống như trên đường dẫn Trần Bình An tới văn miếu, Mao Tiểu Đông đã thuận miệng nói, văn tự trong sách sẽ không mọc chân. Có thể chạy vào trong bụng, bay vào nội tâm hay không, phải dựa vào chính mình đi “phá”, là “phá” trong “đọc phá vạn quyển sách”.

Đạo lý của Nho gia quả thật phong phú, nhưng trước giờ không phải là lồng giam gò bó con người, đó mới là cơ sở để làm theo ý thích mà không vượt quy củ.

Mao Tiểu Đông cảm khái không thôi.

Tại Văn miếu chính tông của Trung Thổ Thần Châu, có một phòng học vấn ít khi mở cửa. Bên trong là những bài văn chương, những câu đạo lý mà thánh hiền Nho gia để lại cho thế giới Hạo Nhiên, hơn nữa còn được trời đất thừa nhận.

Chữ có lớn nhỏ, ánh sáng vàng phân chia đậm nhạt. Văn tự màu vàng ở gần mặt đất nhất, thường là kiểu chữ càng lớn thì ánh sáng phát ra càng rực rỡ thuần túy.

Có một số văn chương ở hơi cao, đã xem như từng chữ nặng vạn cân, bất động như Ngũ Nhạc Trung Thổ, đủ để lưu danh muôn đời. Từng có rất nhiều thủy tổ khai sơn của các trường phái học thuật, hoặc là một số nhân tài mới nổi danh động thiên hạ, được chiêm ngưỡng nơi này, mặc sức thi triển thần thông. Bọn họ có thể làm dao động, thậm chí có thể di dời rất nhiều văn tự trong đó đến nơi khác.

Thế nhưng đến nay không một ai có thể di chuyển những văn tự màu vàng lớn như hạt bắp trên mặt đất, bởi vì đó là cơ sở học vấn của Chí Thánh tiên sư và Lễ Thánh.

Nhưng cho dù như vậy, một số văn tự của Chí Thánh tiên sư và Lễ Thánh lơ lửng trên cao trong phòng học vấn, ánh sáng vàng cũng sẽ rút đi, tự động tiêu tan.

Trong bí sử của Văn miếu, lần đầu tiên xuất hiện tình huống này, thánh nhân học cung đều kinh hãi không thôi. Ngay cả một vị phó giáo chủ Nho gia trấn giữ Văn miếu, cũng phải vội vàng tắm rửa thay quần áo, đi đến dưới tượng thần của Chí Thánh tiên sư và Lễ Thánh, phân biệt đốt nhang thơm. Có điều hai vị thánh nhân vẫn chưa từng lộ diện.

Chính là khi đó, người đọc sách còn chưa được văn mạch Nho gia tôn kính là Á Thánh, đã nói một câu: “Trên thế gian không có học vấn muôn đời không thay đổi, trên đời không có văn chương thập toàn thập mỹ, không đáng ngạc nhiên. Nếu không hậu nhân chúng ta đọc sách nghiên cứu học vấn làm gì?”

Nhờ đó mà lòng người Văn miếu ổn định.

Mao Tiểu Đông dừng suy nghĩ, nhìn người trẻ tuổi ngồi đối diện với mình. Hình dáng của hắn rất thanh tú, giống như ngọc thạch, siêu phàm thoát tục một cách tự nhiên. Thần thái của hắn tựa như châu báu rực rỡ, giống như một vầng trăng sáng nhỏ thất lạc ở nhân gian, chưa bị thần tiên cung trăng thu về thiên đình. Vô số mảnh vỡ như ánh sao lấp lánh, vây quanh mặt trăng.

Có một tiểu sư đệ như vậy, thân là sư huynh há có thể không cảm thấy vinh hạnh? Chuyện này không liên quan gì đến xuất thân sang hèn, tu vi cao thấp.

Thầy giáo của ông ta là Văn Thánh, sư huynh có đám Tề Tĩnh Xuân và Tả Hữu. Ông ta cũng đã sớm quen biết với A Lương, còn được học cung Lễ Ký coi trọng, thậm chí còn đối đáp với người đọc sách Trung Thổ Thần Châu, từng dùng một kiếm mở ra động tiên nhỏ Hoàng Hà.

Ông ta cũng có rất nhiều cơ duyên lớn, đi qua nhiều con đường học tập, quen biết vô số cao nhân ẩn sĩ. Thậm chí còn từng nhiều lần uống rượu với lão tổ Nông gia, đồng hành vạn dặm núi sông. Nhưng Mao Tiểu Đông vẫn cảm thấy mình không bằng Trần Bình An, bởi vì ông ta đã bỏ lỡ quá nhiều, không thể nắm giữ.

Thôi Đông Sơn từng vô tình nói qua, sau khi Trần Bình An rời khỏi động tiên Ly Châu, một đoạn hành trình nội tâm nguy hiểm nhất, không phải là đánh đánh giết giết gì, mà là A Lương tìm đến hắn.

Cuộc khảo nghiệm đó nhìn như chỉ có phúc duyên chứ không nguy hiểm, nhưng nếu tâm tính của Trần Bình An thay đổi một chút, sẽ biến thành giống như Triệu Dao. Trong năm tháng sau này, hắn có thể sẽ lấy được cơ duyên khác, nhưng nhất định sẽ bỏ lỡ A Lương, bỏ lỡ Tề Tĩnh Xuân, bỏ lỡ cơ duyên lớn nhất mà Tề Tĩnh Xuân vất vả giúp hắn kiếm được, cũng bỏ lỡ lão tú tài, cuối cùng là bỏ lỡ cô gái ngưỡng mộ trong lòng. Một bước sai thì mọi bước đều sai, thua hết cả ván.

Khi đó Mao Tiểu Đông không nhịn được hỏi: “Vậy Trần Bình An làm thế nào vượt qua nguy hiểm?”

Thôi Đông Sơn lại đưa ra một câu trả lời rất không nghiêm túc: “Tiên sinh nhà ta biết mình ngốc, đương nhiên cũng có may mắn.”

Mao Tiểu Đông còn muốn truy xét ngọn nguồn, nhưng Thôi Đông Sơn lại không muốn nói nữa.

Đến cuối cùng, những đồ dùng cúng tế mà Mao Tiểu Đông từ văn miếu kinh thành mang tới, chỉ giống như thêu hoa trên gấm, không thể tặng than trong tuyết. Ông ta lại càng vui vẻ, như vậy nghĩa là vật bản mệnh do viên văn mật màu vàng kia luyện chế ra, cấp bậc sẽ càng cao.

Đương nhiên sẽ không bằng Thủy Tự ấn kia, nhưng trên đời biết đi đâu tìm một con dấu do Tề Tĩnh Xuân dùng tinh khí thần của mình khắc chữ?

Ngay cả Mao Tiểu Đông cũng cảm thấy tiếc nuối cho Trần Bình An, lại bị hủy Sơn Tự ấn ở khe Giao Long. Bằng không xây dựng ra một kết cấu “sông núi nương tựa”, luyện chế hai vật bản mệnh thành công, sẽ không chỉ đột phá vách chắn cảnh giới thứ hai, bước vào cảnh giới thứ hai đỉnh cao, mà cảnh giới thứ ba đỉnh cao cũng là chuyện trong tầm tay.

Cho dù ba vật bản mệnh còn lại cấp bậc có kém, chỉ cần gom đủ thuộc tính ngũ hành, nhất định có thể phá vỡ ngưỡng cửa lớn đầu tiên của luyện khí sĩ, chạy thẳng đến năm cảnh giới trung.

Có điều ông ta cũng biết rõ, mang theo Sơn Tự ấn của Tề Tĩnh Xuân tới núi Đảo Huyền, rất có thể sẽ xảy ra bất trắc lớn.

Những lựa chọn được mất nhìn như không có đầu mối này, đại khái chính là “cơ sở học vấn” của Trần Bình An, vốn có sẵn hơn cả quyền pháp, luyện kiếm và đọc sách, thậm chí là một số đạo lý mà hắn ngộ ra.

Thực ra Thôi Đông Sơn là người nghiên cứu chuyện này sâu nhất. Thần tiên khác biệt, sâu trong hồn phách, tính cách ra sao, Thôi Đông Sơn và Thôi Sàm đã đi rất xa trên con đường nhỏ bé sâu thẳm này, không chừng còn là người đi xa nhất thế gian.

Nghe đồn năm xưa trước khi quyết định phản bội nhánh Văn Thánh, Thôi Sàm đã đến phòng học vấn của Văn miếu Trung Thổ Thần Châu, không nói lời nào, chỉ nhìn văn tự như hạt bắp màu vàng trên đất, đủ ba ngày ba đêm. Hắn chỉ xem những chữ phía dưới cùng, còn văn tự hơi cao thì không nhìn đến.

Mao Tiểu Đông khẽ thở dài một tiếng. Bất kể thế nào, có thể thuận lợi luyện hóa viên văn mật màu vàng này làm vật bản mệnh, đã là một cơ duyên không tầm thường. Chuyện không cầu toàn, tâm đừng quá cao.

Suy nghĩ không còn bay xa, Mao Tiểu Đông lần lượt đổ văn vận trong từng món đồ dùng cúng tế vào lò đan, thủ pháp rất tuyệt diệu. Vì vậy mới có cảnh tượng tuyệt mỹ mà Tạ Tạ và Thạch Nhu nhìn thấy, dòng chảy thời gian trên đỉnh núi dính lên một tầng ánh sáng màu vàng.

Lò đan tràn ngập khí tức năm màu đột nhiên yên lặng, mây khói tan hết.

Viên văn mật màu vàng yên lặng nằm dưới đáy lò luyện kim năm màu, hóa thành chất lỏng màu vàng, sau đó từ từ “sinh trưởng” thành một người đọc sách áo nho đeo kiếm cao chừng ngón tay, thân hình màu vàng.

Nó nhảy một cái, đi tới ven rìa đỉnh lò luyện đan, ngẩng đầu nhìn Trần Bình An. Có điều nét mặt vẫn mơ hồ, chưa định hình rõ ràng, đại khái là dáng vẻ của Trần Bình An. Ngoại trừ lưng đeo một thanh trường kiếm, bên hông còn có mấy quyển sách nhỏ màu vàng được cột bằng tơ vàng mảnh khảnh.

Người tí hon áo nho màu vàng lên mặt cụ non nói:
- Phải đọc sách nhiều. Còn nữa, là tự ngươi nói, biết sai mà sửa chính là chuyện tốt.

Trần Bình An đã mồ hôi đầm đìa, đưa tay lau trán, gật đầu cười nói:
- Cùng cố gắng.

Nho sĩ màu vàng hóa thành một vệt cầu vồng, nhanh chóng lướt vào khiếu huyệt trong lòng Trần Bình An, ngồi xếp bằng. Nó cầm lấy một quyển sách bên hông, bắt đầu lật xem. Ngoài ra còn có một viên văn mật màu vàng lơ lửng trong động phủ, thực ra là cùng một thể với người tí hon áo nho đeo kiếm đeo sách.

Mao Tiểu Đông ngẩn người, sau đó bắt đầu nhíu mày.

Trần Bình An nghi hoặc hỏi:
- Có gì không ổn à?

Vẻ mặt Mao Tiểu Đông nghiêm túc, hỏi:
- Luyện hóa văn mật màu vàng làm vật bản mệnh, ngưng tụ thành văn sĩ áo nho, ta cảm thấy cũng không quá kỳ lạ. Nhưng vì sao nó lại nói câu kia?

Trần Bình An nghiêm túc suy nghĩ một lát, nói:
- Sau khi tôi đọc sách biết chữ, vẫn luôn sợ đạo lý mình tổng kết ra là sai. Cho nên dù là đối diện với thằng bé áo xanh năm xưa, Bùi Tiền sau này, hay là Thôi Đông Sơn đã hỏi tôi hai vấn đề kia, tôi đều sợ nhận thức của mình chỉ có lý với bản thân, lại sai lầm với người khác. Ít nhất cũng là đạo lý thô thiển không đủ toàn diện, cũng không đủ cao, lo lắng sẽ dạy hư con em.

Mao Tiểu Đông thư thái, lại vui mừng thanh thản cười nói:
- Chuyện này thì... rất đúng.

Ông ta đứng lên, phất tay triệt tiêu thần thông thánh nhân trên đỉnh núi, nhưng thế giới nhỏ thư viện vẫn còn. Ông ta dặn dò:
- Cho đệ thời gian một nén nhang, kế tiếp có thể lấy ra ngọc bài màu vàng “ta khéo nuôi dưỡng tinh thần cương trực”, hấp thu một chút văn vận còn dư trong đồ dùng cúng tế. Không cần lo lắng mình vượt quá giới hạn, sẽ vô tình đánh cắp văn vận và linh khí của núi Đông Hoa, ta tự sẽ cân nhắc thiệt hơn. Sau này đệ chính là luyện khí sĩ cảnh giới thứ hai hợp tiêu chuẩn rồi.

Trần Bình An vội vàng đứng dậy cảm ơn.

Mao Tiểu Đông phất tay, oán giận nói:
- Thật không biết cái tính khách sáo này của tiểu sư đệ ngươi, rốt cuộc là học từ ai.

Trần Bình An nói đùa:
- Không chừng là của Văn Thánh lão tiên sinh thì sao?

Mao Tiểu Đông lập tức nghiêm mặt nói:
- Dụng tâm vất vả của tiên sinh, đệ phải tiếp thu cho tốt!

Trần Bình An lúng túng nói:
- Tôi nói đùa thôi.

Mao Tiểu Đông khiển trách:
- Tiên sinh truyền đạo là ở lời nói, ở hành động, ở từng li từng tí. Thân là vãn bối, há có thể qua loa nói đùa!

Trần Bình An đành phải gật đầu.

Mao Tiểu Đông xoay người, mặt mày tươi tắn, nào có vẻ tức giận gì. Tiểu sư đệ ngươi còn non lắm.

Dòng thời gian trên đỉnh núi chậm rãi chảy ngược, từ mùa thu lui về quang cảnh giữa hè, lá rụng trở về nhánh cây, khô vàng chuyển thành xanh tươi.

Sau khi Mao Tiểu Đông rời đi, Trần Bình An lấy ngọc bài màu vàng ra, cầm trong lòng bàn tay, bắt đầu hấp thu những văn vận còn sót lại trên đỉnh núi Đông Hoa chưa bị lò đan luyện hóa.

Một khe suối màu vàng lớn chừng ngón cái quanh quẩn xung quanh ngọc bài, sau đó chậm rãi chảy vào ngọc bài, lại từ ngọc bài hội tụ ở lòng bàn tay Trần Bình An, đi đến kinh huyệt nơi có người tí hon áo nho và văn mật màu vàng. Trong đó mỗi nơi đi qua đều thấm vào đồng ruộng nội tâm của Trần Bình An.

Sau khi nước suối văn vận màu vàng tràn vào kinh huyệt, người tí hon áo nho kia lập tức không đọc sách nữa. Nó cười đến không khép miệng được, nhảy nhót tung tăng, khoa tay múa chân. Đây có lẽ là bản tính trẻ con của Trần Bình An, trong năm tháng lớn lên rất ít có cơ hội lộ ra.

Sau khi nước suối dừng lại ở động phủ, người tí hon màu vàng lội nước đi tới cửa phủ. Nó hô to một tiếng, lập tức có một con rồng lửa do chân khí thuần túy hóa thành bay đến. Người tí hon nhảy một cái, ngồi trên đầu rồng kia, hò hét ra sức lắc lư hai chân, cưỡi rồng tuần tra thế giới nhỏ thân người.

Trần Bình An dùng phương pháp nội thị, sau khi nhìn thấy cảnh này liền hơi xấu hổ. Sao “mình” lại nghịch ngợm như vậy? Cảm giác không tốt hơn Cố Xán và thằng bé áo xanh bao nhiêu.

Thực ra Mao Tiểu Đông vẫn luôn yên lặng quan sát bên này.

Cuối cùng Trần Bình An dùng ngọc bài màu vàng hấp thu văn vận của văn miếu Đại Tùy, không chừa lại chút nào.

Luyện hóa vật bản mệnh gần như đã hao hết linh khí mà Thủy phủ tích góp, nhưng hôm nay Trần Bình An đã là luyện khí sĩ hàng thật đúng giá. Mặc dù ông ta đã lên tiếng, nhưng đừng nói là văn vận núi Đông Hoa, ngay cả linh khí không đáng giá lắm, Trần Bình An cũng không lấy chút nào.

Cho đến giờ phút này, Mao Tiểu Đông mới cảm thấy mình đã hiểu đại khái, vì sao Trần Bình An có thể vượt qua hành trình nội tâm nguy hiểm kia.

Tự kiềm chế bản thân, chỉ đơn giản như vậy mà thôi.

Hành động theo quy củ, gần như cổ hủ cứng nhắc. Thân là người tu hành, lại không biết theo đuổi lợi ích lớn nhất, sẽ khiến những người thông minh trên thế gian có lý do để chế giễu cười nhạo. Cho nên đạo lý mà Trần Bình An diễn sinh ra, sẽ khiến những người không nói đạo lý rất chán ghét.

Trong lòng Mao Tiểu Đông bỗng nhiên rung động. Tảng đá cản đường đè trên tâm cảnh của ông ta, gần như cắt đứt hi vọng bước vào năm cảnh giới cao, dường như đã bắt đầu lỏng ra.

Đạo lý không phân văn mạch. Mao Tiểu Đông ông ta kính trọng tiên sinh, lập chí đời này chỉ đi theo một mình tiên sinh, nhưng cũng không cần cố chấp với quan điểm bè phái, vì văn vận hương khói của thư viện mà cố gắng bài xích học vấn của nhánh Lễ Thánh.

Có một số đạo lý trên thế gian vốn là tương thông, bổ trợ cho nhau.

Mao Tiểu Đông ngồi trong thư phòng, nhẹ nhàng lấy cây thước xuống, đặt trên bàn đọc sách, bắt đầu nhắm mắt dưỡng thần.

Tích lũy lâu ngày, một khi lĩnh ngộ, trời đất đổi vận, gió trăng sáng ngời.

Thôi Đông Sơn đang nằm trên hành lang viện nhỏ, đột nhiên ngồi dậy, kinh ngạc nói:
- Cái tên Mao Tiểu Đông tư tưởng bảo thủ này, cũng sắp hợp đạo rồi?

Hắn ngả người về phía sau, tay chân vung loạn, giống như một con rùa trắng bị người ta lật ngược... ra sức kêu lên:
- Sao ta vẫn còn là một cảnh giới Nguyên Anh rắm chó, sau này làm sao mà sống. Ta không có mặt mũi đi gặp tiên sinh nữa, ai tới đánh chết ta cho xong đi...

---------

Bến thuyền Phong Vĩ.

Ba ông lão sánh vai bước đi. Nhìn như tuổi tác xấp xỉ, thực ra lại cách xa nhau.

Trong đó có một ông lão vốn sinh trưởng ở đây, trước kia mỗi lần lui tới đều không muốn hiện thân, thật sự chán ghét những tranh chấp thế tục. Chỉ là lần này có một lão già đã nói, ngươi không phải là chuột qua đường, cần gì phải giấu đầu giấu đuôi như vậy. Thế là ba người cứ nghênh ngang như vậy, xuất hiện trên con đường ở bến thuyền Phong Vĩ.

Ông lão tên là Lưu Lão Thành, lúc này đã phát hiện được một số ánh mắt kinh ngạc. Ông ta chỉ giả vờ như không thấy, trong lòng cười khổ không thôi, yên lặng dẫn theo hai người bên cạnh đến nhà tổ trong ngõ nhỏ kia. Ông ta nghĩ thầm, nếu các ngươi biết được thân phận của hai người bên cạnh ta, đoán rằng sẽ sợ đến vỡ mật.

Lưu Lão Thành vốn là người sinh ra ở bến thuyền Phong Vĩ, nơi tiếp giáp giữa ba nước Thanh Loan, Khánh Sơn và Vân Tiêu. Cuối cùng ông ta lại trở thành người duy nhất của Bảo Bình châu còn trên thế gian, dùng thân phận tu sĩ sông núi bước vào năm cảnh giới cao.

Hai người còn lại, một người là lão bang chủ Cao Miện của bang Vô Địch Thần Quyền. Ông ta là một tu sĩ nổi tiếng ở Bảo Bình châu, vì nghĩa khí giang hồ mà hai lần từ cảnh giới Ngọc Phác rơi xuống cảnh giới Nguyên Anh.

Cao Miện và Lưu Lão Thành là bạn thân tâm đầu ý hợp, cho nên lần này Lưu Lão Thành muốn đi tranh đoạt mảnh vỡ kim thân lưu ly sau khi Đỗ Mậu phi thăng thất bại, đã đặc biệt gọi Cao Miện đến. Vóc người Cao Miện thấp bé, mặc áo vải bố, bề ngoài có vẻ hung hãn, tác phong nhìn như cường đạo, còn giống một tu sĩ sông núi thích vào nhà cướp của hơn Lưu Lão Thành.

Người cuối cùng là một ông lão tu sĩ châu khác mặc trường bào. Đoán rằng nếu không có Lưu Lão Thành và Cao Miện giúp đỡ chứng minh, cho dù ông ta lớn giọng nói ra danh hiệu của mình, cũng tuyệt đối sẽ không ai tin. Ông ta họ Tuân tên Uyên, chính là lão tông chủ của Ngọc Khuê tông, người đứng đầu cảnh giới Tiên Nhân của Đồng Diệp châu.

Gia chủ họ Khương của đất lành Vân Quật là Khương Thượng Chân, một đại tu sĩ ngang ngược như vậy, nhìn thấy tông chủ Tuân Uyên cũng phải cúp đuôi làm người... nói chuẩn xác là làm thần tiên cảnh giới Ngọc Phác.

Đến cuối ngõ nhỏ nơi rồng nằm hổ phục kia, Cao Miện lớn giọng hỏi:
- Lưu lão nhi, thằng nhóc Khương Uẩn kia khi nào tới bang phái chúng ta làm cung phụng? Dáng vẻ anh tuấn như vậy, nhất định có thể lừa gạt được không ít tiên tử đến ngọn núi của ta làm khách.

Lưu Lão Thành bất đắc dĩ nói:
- Đệ tử của ta chạy tới bang Thần Quyền, chỉ để giúp ngươi ngắm nhìn các lộ iên tử cho đã mắt? Loại chuyện vớ vẩn này, ta làm sao mở miệng với Khương Uẩn? Hay là ngươi cho ta mượn da mặt dùng một chút?

Cao Miện bước dài vượt qua ngưỡng cửa:
- Ngươi bớt giả vờ với ta đi. Năm xưa lúc chúng ta cùng hành tẩu giang hồ, ngươi học môn bí thuật tà đạo kia để làm gì? Ngoại trừ trộm pháp bảo, còn trộm đồ của bao nhiêu tiên tử...

Lưu Lão Thành đưa tay che miệng Cao Miện, thẹn quá hóa giận nói:
- Ai mà không có một đoạn năm tháng tuổi trẻ phong lưu hoang đường. Nói mấy chuyện linh tinh này, không sợ khiến Tuân lão tiền bối buồn nôn sao?

Tuân Uyên cười híp mắt nói:
- Nào có, nào có.

Cao Miện ngồi trong viện, vung tay lên:
- Lưu lão nhi, đi mua mấy vò rượu tiên nhân giếng nước chính hiệu về đây. Số rượu trong nhà chắc chắn là bị Khương Uẩn uống hết rồi, không cần xem nữa.

Lưu Lão Thành cáo từ Tuân Uyên, rời khỏi viện đi mua rượu.

Lúc trở lại, ông ta thấy hai người đang thưởng thức kính hoa thủy nguyệt trong một bức tranh cuộn, thuộc về những ngọn núi vừa và nhỏ “biết cách làm giàu” của Bảo Bình châu. Cao Miện đã chuẩn bị một đống tiền thần tiên, trên bàn trước người lão tiên nhân Tuân Uyên còn nhiều hơn.

Lưu Lão Thành thật sự không cảm thấy hứng thú với những chuyện này, nhưng lúc đưa cho Tuân Uyên một bình rượu tiên nhân giếng nước, vẫn khách sáo nói một câu:
- Lão tiền bối thật là có nhã hứng.

Tuân Uyên cười gật đầu.

Trong tranh cuộn là một “tiên tử” đang thắp hương vẽ tranh, thân hình uyển chuyển, cố ý lựa chọn một bộ áo váy hơi bó sát người. Bởi vì khán giả có thể tự mình xoay hướng tranh cuộn, cho nên tư thế ngồi của tiên tử kia, ngay cả kích thước của ghế thêu cũng rất coi trọng, khiến cho những đường cong trên thân hình đẫy đà của cô đều lộ ra.

Cao Miện liếc nhìn Tuân Uyên đang ngồi ngay ngắn, cười giễu một tiếng, đưa tay xoay tranh cuộn một chút, lập tức biến thành quang cảnh nhìn nghiêng động lòng người. Hai ngón tay của lão khẽ chuyển động, cô gái trong tranh bỗng phóng to lên mấy phần, cảnh tượng xung quanh cũng theo đó lui ra khỏi tranh.

Cao Miện không quên cười nhạo nói:
- Giả vờ đứng đắn cái gì?

Tuân Uyên xấu hổ cười, dường như không dám cãi lại.

Lưu Lão Thành tự mình uống rượu, cảm thấy bất đắc dĩ.

Nghe nói hai người đồng đạo thuộc về hai châu này, lúc đầu là không đánh nhau thì không quen biết.

Trong giang hồ kính hoa thủy nguyệt của Bảo Bình châu, Cao Miện có danh hiệu là Ngọc Diện Tiểu Lang Quân, biệt hiệu là Võ Thập Cảnh, lời nói và việc làm đều giống như thân phận thật sự của ông ta, đó là bang chủ của bang Vô Địch Thần Quyền.

Tính tình ông ta nóng nảy, thường hay mắng người, mắng cả những tiên tử chuyên làm bộ làm tịch kia. Ông ta ghét nhất những cô gái vì một hai kẻ chịu bỏ tiền mà ra sức nịnh hót, ngang nhiên liếc mắt đưa tình, hoàn toàn thờ ơ với những khán giả còn lại.

Còn Tuân Uyên tự xưng là Nhất Xích Thương, thường chỉ yên lặng đập tiền thần tiên, nhìn thấy cảnh tượng không thích cũng sẽ không nói gì.

Có điều sau khi hai người đập tiền càng ngày càng nhiều, danh tiếng cũng càng lúc càng lớn. Có một lần hai người đã xảy ra tranh chấp, liên quan đến chuyện Hạ Tiểu Lương Thần Cáo tông và Tô Giá núi Chính Dương, rốt cuộc ai mới là tiên tử đứng đầu Bảo Bình châu. Hai người đều “vung tay đấu đá”, một người một câu, mỗi lần là một đồng tiền tiểu thử, ném cả một đống lớn khiến người ta cảm thán.

Nhất thời mọi người đều suy đoán, hai người này rốt cuộc là lão tổ tông của môn phái nào, lại ra tay hào phóng như vậy, xem tiền tiểu thử giống như tiền hoa tuyết, mà lại chưa từng có lời đồn về chuyện ướt át với các tiên tử.

Rất nhiều cô gái tu sĩ của những ngọn núi nhỏ, vì muốn thu hút buôn bán cho sư môn, sẵn lòng hoặc bị ép đi tìm những luyện khí sĩ chuyên chỉnh xương cốt, nhằm thay đổi tướng mạo và dáng người bẩm sinh. Còn làm như vậy có ảnh hưởng đến số mệnh, phá hư tu hành đại đạo hay không, bọn họ cũng mặc kệ. Quả thật là không thể quan tâm, chỉ có thể mặc cho những tu sĩ chuyên gia kia động dao trên mặt.

Có lần Ngọc Diện Tiểu Lang Quân và Nhất Xích Thương vô tình gặp gỡ. Khi đó có rất nhiều khán giả tinh mắt, vừa nhìn đã phát hiện tiên tử của một môn phái tiên gia hạng ba, nét mặt đã thay đổi khá lớn. Nhất thời tiếng giễu cợt nổi lên, rất chua ngoa thô tục. Tiên tử kia xấu hổ và tuyệt vọng, lại không dám tranh cãi, chỉ liên tục xin lỗi. Nhưng làm vậy càng khiến cho tiếng châm chọc chửi rủa nhiều hơn, không kiêng nể gì cả.

Không ngờ Ngọc Diện Tiểu Lang Quân đột nhiên đập tiền, lên tiếng bênh vực cô gái, mắng đám khán giả kia một trận. Nhất Xích Thương cũng phụ họa, hai kẻ địch không đội trời chung lần đầu tiên cùng chung chí hướng.

Cuối cùng Ngọc Diện Tiểu Lang Quân ném tiền thần tiên xong, tiếp tục mắng: “Kiếm tiền không dễ, tu hành cũng không dễ. Tiểu cô nương người ta có tranh giành đại đạo với ngươi, hay là chém cả nhà ngươi rồi? Cần phải dùng lời nói chà đạp người ta như vậy sao? Đám người các ngươi ban đầu không nên được cha mẹ sinh ra. Nếu ông đây có đại thần thông, nhất định sẽ đi ngược dòng thời gian, đến thời điểm cha mẹ các ngươi đại chiến trên giường, một chưởng đánh nát giường.”

Cuối cùng của cuối cùng, Ngọc Diện Tiểu Lang Quân bỏ lại một câu với Nhất Xích Thương: “Ngươi cũng xem như là đàn ông, chỉ là ánh mắt kém một chút, lại thích Hạ Tiểu Lương hơn Tô Giá, vừa nhìn đã biết là một kẻ tu hành không có tiền đồ.”

Sau đó Nhất Xích Thương lại thành “tùy tùng” của Ngọc Diện Tiểu Lang Quân, chỉ cần gặp gỡ, Nhất Xích Thương đều ra vẻ giống như tay sai.

Hôm nay trước khi Cao Miện và Tuân Uyên đập tiền, đã có người bắt đầu dùng lời nói trêu chọc tiên tử kia. Bên trong kính hoa thủy nguyệt, giữa các khán giả đều không biết đối phương là ai, cho nên thường sẽ không kiêng nể gì cả, quen nói chuyện bằng thân dưới. Thường xuyên có người lúc thưởng thức tranh cuộn hay chén nước, bên tay lại đặt mấy bộ tiểu thuyết diễm tình thịnh hành ở nhân gian.

Đại khái là hoạ vô đơn chí, tỳ nữ đứng ở bên cạnh mài mực cho tiên tử cũng bị vạ lây.

Tỳ nữ tên Thạch Thu, là đệ tử ký danh mà sơn môn này mới thu nhận không lâu. Mỗi khi chủ nhân lộ diện, cô thỉnh thoảng sẽ xuất hiện trong tranh cuộn, không phải bưng trà rót nước thì củng là đưa đồ, làm việc vặt của người hầu. Thực ra hình dáng của cô còn đẹp hơn tiên tử kia, nhưng tu hành trên núi, vẫn luôn dựa vào thiên tư và cảnh giới để quyết định thân phận.

Đối với những chuyện này, Cao Miện và Tuân Uyên là người từng trải, nhìn mãi thành quen. Bình thường chỉ cần không quá đáng, bọn họ sẽ không nói gì.

Tỳ nữ tên là Thạch Thu kia, có lẽ còn chưa quen với những lời sỉ nhục khó nghe, vành mắt ửng đỏ, khẽ cắn môi. Nhưng họa vẫn ập đến, từ góc độ này của tranh cuộn, Cao Miện vừa lúc nhìn thấy, tiên tử kia có lẽ nổi nóng vì tỳ nữ làm mất hứng, ở dưới đáy bàn nhanh chóng giẫm lên mu bàn chân tỳ nữ bên cạnh một cái.

Cao Miện vốn đã định ném tiền thần tiên, sau khi nhìn thấy cảnh này, liền thả nắm tiền hoa tuyết trong tay vào lại đống tiền.

Ông ta cầm bầu rượu lên uống một hớp, hừ lạnh nói:
- Lại là kiểu đàn bà này, đúng là lãng phí một chút khí chất cao nhã từ gia tộc lớn ở thế tục mang lên núi.

Tuân Uyên khẽ cười.

Cao Miện cảm thấy hơi mất hứng, chỉ uống rượu.

Lưu Lão Thành nhắc nhở:
- Lão Cao, ngươi hãy kiềm chế một chút. Không uống rượu thì ngươi là người của Bảo Bình châu, còn uống rượu rồi thì cả Bảo Bình châu đều là của ngươi. Đây là nhà tổ của ta, không chịu nổi ngươi say mèm quậy phá đâu.

Cao Miện hừ lạnh một tiếng, đột nhiên hỏi:
- Tiểu Phi Thăng, ngươi cảm thấy cái tên bang Vô Địch Thần Quyền này thế nào?

Ánh mắt Tuân Uyên vẫn nhìn chăm chú vào tranh cuộn, không hề do dự nói:
- Mạnh, vô địch, bá khí, tại Bảo Bình châu giống như hạc đứng giữa bầy gà, có một không hai.

Cao Miện gật đầu:
- Xem như ngươi thức thời, biết nói mấy lời thật lòng với ta.

Lưu Lão Thành đã cố gắng nhẫn nhịn, nhưng vẫn không nhịn được, nói với Tuân Uyên:
- Tuân lão tiền bối, sao ngài lại nói vậy? Những chuyện khác nhường nhịn lão thất phu này cũng thôi đi, nhưng hắn đặt cái tên bang phái rắm chó như vậy, khiến đệ tử sơn môn không ngẩng đầu lên được. Tuân lão tiền bối ngài còn khen ngợi trái với lương tâm như thế, Lưu Lão Thành tôi... thật không nhịn được.

Lưu Lão Thành ở bến thuyền Phong Vĩ là đại tu sĩ cảnh giới Ngọc Phác, người đứng đầu tu sĩ hoang dã ở Bảo Bình châu, thân là tu sĩ sông núi lại mở ra con một đường riêng, đã nhìn thấy rất nhiều người và chuyện kỳ lạ.

Tuân Uyên và Cao Miện, một người là cảnh giới Tiên Nhân, lãnh tụ tiên sư của Đồng Diệp châu, còn một người là lão tổ của tông môn Bảo Bình châu, đã rơi xuống cảnh giới Nguyên Anh. Nếu nói là hai người gặp lần đầu đã quen thân, ngưu tầm ngưu mã tầm mã, thực ra đã rất hiếm thấy.

Bọn họ không để ý tới chênh lệch hai cảnh giới, không so đo nội tình của hai sơn môn cách xa nhau, Lưu Lão Thành có thể miễn cưỡng lý giải được. Nhưng Tuân Uyên ngài còn liên tục tâng bốc lão già thô lỗ không hiểu văn chương này như vậy?

Lúc đầu Lưu Lão Thành còn sợ Tuân Uyên có mưu đồ. Nhưng Tuân Uyên không ngại đối mặt với thiên quân Đạo gia Kỳ Chân, cùng với Tiểu Phi Thăng đi đến màn trời, thương nghị với thánh nhân trấn giữ xem động tiên vỡ tan kia thuộc về ai. Cộng thêm sau đó ba người rãnh rỗi cùng nhau du lịch, cho dù là người cẩn thận chặt chẽ như Lưu Lão Thành cũng phải thừa nhận, Tuân Uyên nịnh hót bợ đỡ Cao Miện, Cao Miện tùy ý sai khiến Tuân Uyên, hai người đều là... thật lòng.

Tuân Uyên mỉm cười nói với Lưu Lão Thành:
- Ta thật sự cảm thấy cái tên bang Vô Địch Thần Quyền này rất tốt.

Lưu Lão Thành thở dài một tiếng, ôm quyền cười khổ nói:
- Bội phục.

Cao Miện nói:
- Lưu Lão Thành, những điểm khác ngươi đều tốt hơn Tiểu Phi Thăng, chỉ có chuyện thẩm mỹ này, ngươi lại kém xa Tiểu Phi Thăng.

Tuân Uyên vỗ gối một cái:
- Đúng đúng đúng, câu này của Tiểu Lang Quân khiến ta tỉnh ngộ. Ta vốn không nghĩ ra, vì sao trên đường tu hành vẫn luôn cô đơn như vậy. Hôm nay Tiểu Lang Quân đã một lời nói rõ thiên cơ, chính là do hứng thú thẩm mỹ, khiến cho ta quá cao siêu nên ít người hiểu được. Nếu như không gặp Tiểu Lang Quân...

Cao Miện vỗ bàn một cái:
- Mấy lời nịnh bợ này cần ngươi tới nói sao? Tại bang Vô Địch Thần Quyền, ông đây đã sớm nghe đến chai tai rồi.

Tuân Uyên đành phải im lặng.

Hôm nay cũng không có kính hoa thủy nguyệt khác để xem, Cao Miện bèn triệt tiêu thần thông luyện khí sĩ, uống đến say mèm rồi đi ngủ.

Lúc này Tuân Uyên mới dám ném mấy đồng tiền tiểu thử vào trong tranh cuộn, nói rằng nếu sau này Thạch Thu cô nương có thể một mình xuất hiện trong tranh cuộn, Nhất Xích Thương ông ta nhất định sẽ ủng hộ. Sau đó cất tranh cuộn đi.

Nhân gian vui buồn nhiều vô số kể, Tuân Uyên không muốn vì những chuyện này mà đặt chân vào thế tục bùn lầy, mọi chuyện chỉ chạm đến thì dừng.

Lưu Lão Thành do dự rất lâu mới lên tiếng:
- Tuân lão tiền bối, Lưu Lão Thành tôi là bằng hữu của Cao Miện, muốn mạo muội hỏi một câu. Lão tiền bối thân là tông chủ Ngọc Khuê tông, quả thật không có mưu đồ gì với Cao Miện sao?

Tuân Uyên lắc đầu cười nói:
- Quả thật chưa từng có, chỉ là tĩnh đến cực điểm hi vọng sẽ chuyển thành động mà thôi. Muốn tới Bảo Bình châu các ngươi đi dạo, vừa lúc chỉ có một bằng hữu là Cao Miện, không tìm hắn thì tìm ai?

Lưu Lão Thành gật đầu.

Tuân Uyên tiếp tục nói:
- Ta cũng có một chút tư tâm. Luyện khí sĩ muốn bước vào năm cảnh giới cao, phải cầu hai chữ “hợp đạo”, mượn nó để phá vỡ tâm ma đạo cao một thước, ma cao một trượng. Nói thế nào đây, chuyện này giống như mượn đồ của ông trời, tại thời kỳ cảnh giới Tiên Nhân phải trả lại. Mà cảnh giới Tiên Nhân muốn tiến thêm một bước, chẳng qua là tu đạo cầu chân, chỉ nằm trên chữ “chân” này.

Lưu Lão Thành đứng lên, lễ độ cung kính nói:
- Đã tiếp thu dạy bảo.

Tuân Uyên lắc đầu cười nói:
- Chuyện nhạt nhẽo như vậy, Lưu Lão Thành ngươi thiên tư trác tuyệt, tiếp thu dạy bảo cái gì? Ta có thể dạy ngươi cái gì?

Lưu Lão Thành mỉm cười ngồi xuống:
- Nếu không có Cao Miện, tin rằng đời này tôi cũng không có cơ hội ngồi uống rượu với Tuân lão tiền bối, đúng không?

Tuân Uyên gật đầu nói:
- Bởi vì chúng ta vĩnh viễn không phải là người đồng đạo. Có điều nếu tiếp xúc một phen, ta cũng có thể chấp nhận Lưu Lão Thành ngươi.

Lưu Lão Thành nói:
- Vãn bối đúng là may mắn.

Tuân Uyên đột nhiên nói:
- Ta dự định trong vòng trăm năm, sẽ thành lập hạ tông của Ngọc Khuê tông ở Bảo Bình châu, cho Khương Thượng Chân làm tông chủ đời đầu. Ngươi có muốn làm cung phụng cao nhất không?

Lưu Lão Thành kinh ngạc nói:
- Cao Miện có biết chuyện này không?

Tuân Uyên lắc đầu:
- Không nói cho hắn biết, bởi vì ta xem hắn là bằng hữu thật sự. Còn Lưu Lão Thành ngươi không phải, cho nên chúng ta có thể nói những chuyện này.

Lưu Lão Thành bắt đầu cân nhắc.

Tuân Uyên mỉm cười nói:
- Trước khi ta rời khỏi bến thuyền Phong Vĩ, ngươi hãy cho ta một câu trả lời chuẩn xác. Yên tâm, ta sẽ không ép buộc, hơn nữa bản lĩnh của Lưu Lão Thành ngươi cũng không xem là nhỏ.

Lưu Lão Thành gật đầu một cái:
- Để tôi suy nghĩ một chút.

Cho dù Tuân Uyên là một vị tiên nhân pháp thuật thông thiên, cũng không biết hành động nho nhỏ của ông ta, lại ảnh hưởng lớn đến tỳ nữ trẻ tuổi tên là Thạch Thu kia. Sơn môn đã thông báo, cô có thể tự mình “mở tranh”, hơn nữa còn được chia một khoản tiền thần tiên.

Sau đó cô đứng yên bất động, chịu mười mấy cái tát của tiên tử kia. Tiên tử mắng vô số câu “tiện tỳ”, Thạch Thu vẫn không nói lời nào. Sau khi tiên tử kia phát tiết lửa giận trong lòng, xoay người đi xa, Thạch Thu mới dám lau tơ máu trên khóe miệng, trở về căn phòng chật hẹp kia. Cô đóng cửa lại, ngồi xổm xuống, cẩn thận lấy chiếc túi gấm kia ra, nắm chặt trong lòng bàn tay, một tay che miệng, tiếng nức nở phát ra từ giữa kẽ ngón tay.

---------

Tại nước Thanh Loan, lão thị lang Liễu Kính Đình từ một lãnh tụ giới học thuật, tông chủ văn hóa, đột nhiên danh tiếng sa sút, biến thành trò cười trong ngoài triều đình. Ngay cả những tiểu thương sai dịch, cũng bắt đầu nồng nhiệt tán gẫu những chuyện ướt át của phu tử kia. Vườn Sư Tử thì vẫn luôn đóng cửa từ chối tiếp khách, Liễu Kính Đình cũng không lên tiếng với bên ngoài.

Lý Bảo Châm đã hoàn thành việc lớn, khiến cho những thân sĩ xuôi nam kia mất đi một “minh chủ văn đàn” trên danh nghĩa. Bọn họ buộc phải tìm một thủ lĩnh văn đàn khác của nước Thanh Loan, có thể phục chúng và ngưng tụ lòng người. Có điều nhìn cảnh ngộ của Liễu Kính Đình, khiến cho rất nhiều đại nho giới học thuật vốn định ứng cử, trong lòng lại cảm thấy bất an.

Các hào phiệt thế tộc di dời đến nước Thanh Loan đành phải lùi một bước, muốn từ trong nội bộ tìm ra một vị lãnh tụ. Có điều làm như vậy lại khiến tình hình trở nên phức tạp. Rất nhiều gia chủ của tộc lớn, thanh danh thực ra không thua kém Liễu Kính Đình. Nhưng mọi người đều là người xứ khác, cùng là rồng qua sông, có ai chịu đứng thấp hơn người khác một cái đầu? Có ai không lo lắng người được đề cử ra, sẽ lén lút dùng công mưu tư sau lưng mọi người?

Nhất thời giới trí thức bản thổ nước Thanh Loan hỗn loạn. Những thế tộc sau màn từ bên ngoài đến, vốn định nâng đỡ Liễu Kính Đình làm con rối, nhằm để hạn chế và cân bằng với hoàng đế họ Đường, lúc này cũng không yên tĩnh.

Hôm nay Lý Bảo Châm tới huyện nha thăm viếng Liễu Thanh Phong, hai người tản bộ trong hoàng hôn. Lý Bảo Châm tươi cười, kết luận một câu về đám sĩ tử xuôi nam như rắn mất đầu kia:
- Tú tài tạo phản, ba năm không thành.

Liễu Thanh Phong cũng cười gật đầu.

Lý Bảo Châm ngoài mặt tươi cười, trong lòng lại lạnh giá.

Đêm đó sau khi Liễu Thanh Phong rời đi, Lý Bảo Châm nhanh chóng tra tìm thiếu sót, bổ sung thiếu hụt cho “ba chiêu thức” của Liễu Thanh Phong, hoàn thiện mưu đồ đao bút kia.

Khi đó đám óc heo và bị thịt trong phòng đều bội phục Lý Bảo Châm, không ngừng nịnh hót, cũng có mấy phần thật lòng. Nhưng Lý Bảo Châm càng phát lạnh, bởi vì hắn đủ thông minh, biết rằng những thiếu sót nho nhỏ kia, vừa khéo là một chút canh thừa thịt nguội mà Liễu Thanh Phong cố ý để lại, giúp hắn có cơ hội gây dựng uy tín.

Đây là Liễu Thanh Phong âm thầm chừa lại một đường cho người khác.

Lúc rời khỏi dinh quan, Lý Bảo Châm không nhịn được quay đầu nhìn tấm biển nha môn, lẩm bẩm cười nói:
- May mà tu hành ở công môn, không tu ra đại đạo bất hủ gì.

Vừa nghĩ tới những tư lại tạp dịch vốn thật lòng ngưỡng mộ khâm phục Liễu huyện lệnh, lúc này ánh mắt lại trở nên phức tạp, sinh lòng xa cách, thậm chí có người còn không che giấu sự thương hại của mình, Lý Bảo Châm liền cảm thấy vui vẻ, bước chân nhẹ hơn mấy phần, nhanh chóng rời khỏi dinh quan.

Liễu Thanh Phong trở lại chỗ ở, cẩn thận lật xem hồ sơ. Hắn đột nhiên nhớ tới vị võ bí thư lang Đại Ly ngoài cửa, tên thật là Vương Nghị Phủ, mãnh tướng số một của vương triều họ Lư cuối phía bắc Bảo Bình châu năm xưa, sắp trở thành huyện úy quản hạt trị an một huyện, lùng bắt trộm cướp. Nghĩ đến một nhân tài có thể làm trụ cột triều đình Đại Ly, lại bị nước Thanh Loan dùng làm huyện úy, Liễu huyện lệnh liền cười lên. 

Quay lại truyện Kiếm Lai [Dịch]
BÌNH LUẬN

Tiên Nhân [Chủ nhà]

Trả lời

2024-09-07 02:13:19

Tổng hợp các thanh phi kiếm đã từng xuất hiện của kiếm tu trong Kiếm Lai có thể còn thiếu sót thông tin và không phải bảng xếp hạng. - **Trảm Tiên**: Đây là bản mệnh phi kiếm của Ninh Diêu. Ninh Diêu cùng lúc dưỡng hai thanh kiếm là Trảm Tiên và Thiên Chân. Trảm Tiên được dùng để hỏi kiếm Thiên Chân, một trong bốn thanh tiên kiếm, đủ thấy phi kiếm này cường đại như thế nào. - **Trong Lồng Tước**: Đây là bản mệnh phi kiếm của Trần Bình An. Thanh phi kiếm này có được thần thông là tạo ra một tòa tiểu thiên địa. Phi kiếm "Trong Lồng Tước" không phải là vật chết trong sơn thủy trận pháp. Cùng với đó, Thánh Nhân trấn thủ thư viện, đạo quán, chùa miếu hoặc chiến trường di chỉ, lại khác biệt. Người sau trấn thủ sơn hà bản đồ, hầu như là cố định, nhưng Trần Bình An nhờ vào "Trong Lồng Tước" lại có thể di chuyển đến mọi nơi trong thiên địa. - **Trăng Trong Giếng**: Đây cũng là bản mệnh phi kiếm của Trần Bình An. Thanh phi kiếm này có được hai loại thần thông. Một là phi kiếm có thể hóa vạn kiếm thành người và vật trong cảnh tượng. Loại thần thông thứ hai là phi kiếm có khả năng sinh ra số lượng rất nhiều, có thể phỏng tạo ra một khoảng thời gian nhỏ. Một cái Trăng Trong Giếng, số lượng phi kiếm nhiều ít, cùng cảnh giới cao thấp có mối liên hệ trực tiếp. Ngoài ra, cũng có thể nhờ vào ăn kim tinh tiền đồng để tăng số lượng phi kiếm. Lý Hi Thánh từng nói: "Trong Lồng Tước bao dung thiên địa thập phương, Trăng Trong Giếng thành tựu thời gian sông dài, tập một ngàn tiểu thiên thế giới." - **Lục Bình (Thanh Bình)**: Đây là bản mệnh phi kiếm của Trần Bình An. Thanh phi kiếm này từng được sử dụng để chém chết 14 cảnh thuần túy kiếm tu của Hoàng Trấn. Mặc dù mượn nhờ Thượng Du và Hạ Du của Bạch Cảnh để mở đường và chặn đường, nhưng uy lực chém chết 14 cảnh chắc chắn không yếu. Thần thông của phi kiếm vẫn chưa được tác giả đề cập rõ. - **Bắc Đẩu**: Đây từng là bản mệnh phi kiếm của Lục Chi và sau đó được chuyển tặng cho Trần Bình An. Phi kiếm này chỉ có một loại thần thông "Bắc Đẩu chú chết," nghĩa là khi thấy kiếm này tế ra là nhận cái chết. Trần Bình An đã dùng kiếm này chém mất binh gia đầu tổ chân thân dương thần. - **Tiểu Phong Đô (Mùng Một)**: Thanh phi kiếm này do Văn Thánh lấy từ chỗ Tuệ Sơn đại thần rồi đưa lại cho Trần Bình An. Phi kiếm này hiện chưa có thần thông, nhưng lại là vật cần thiết để giúp tạo ra một cái nhỏ phong đô (Phong Đô là khu vực quản lý quỷ vật âm đức). Sau đó, được Trần đặt tên là Mùng Một. - **Mười Lăm**: Thanh phi kiếm này là của Thanh Đồng Tiên Quân trao cho Trần Bình An khi đổi lấy cây châm. Kiếm hiện tại chưa có thần thông, nhưng bản thân phi kiếm lại là một kiện phương thốn vật. Lý do kiếm này nhanh chóng chấp nhận Trần Bình An là vì có cùng một ý nghĩ "Nhanh." Điều này tương thông với Thập Ngũ kiếm ý, là tự nhiên tương thông. Thập Ngũ thanh phi kiếm này chính là nhanh, nhanh đến mức mà tất cả đối thủ không kịp trở tay, chiếm lấy tiên cơ. Tiên cơ vô địch giúp có thêm thời gian để cập nhật năm thanh mở đầu, bảy thanh.