Logo
Trang chủ

Chương 11: Sinh mệnh

Cắt cổ một con vật là không hề dễ dàng, càng nguy hiểm hơn khi nó còn to gần bằng một người lớn, nhưng thật may mắn là nó đang trong tình trạng gần đất xa trời rồi. Tôi dùng một sợi dây điện nhỏ cột chặt bốn chân của con vật xấu số để đảm bảo nó không lồng lên khi tôi hạ đao, thêm mấy vòng quanh thân con vật để khóa chặt nó vào cánh cổng.


Ở gần như vầy tôi mới nhận ra đây không phải là một con nai bình thường. Nó có một cặp sừng dài hơi ngả màu xanh lá chứ không phải xám nâu như tôi từng nghĩ, lớp da thì sần sùi với nhiều vết vằn vện loang lổ ẩn dưới lớp lông mỏng mịn, bốn móng chân có vẻ hơi mềm so với một loài thú hoang dại. Điều này làm tôi khá bối rối vì nghĩ rằng nó đang mang một căn bệnh nào đó. Mãi sau này tôi mới biết, đó không tthực sự là một căn bệnh.


Sau khi mọi thứ đã chắc chắn thì tôi bắt đầu tiến hành. Tay phải cầm chiếc rựa đã được mài sắc, tay còn lại giữ chặt đầu con vật, tiếp đó dùng đầu gối ghì chặt vai của nó xuống đất. Lấy hết sức lực, tôi cứa một nhát thật mạnh vào cổ, nhanh và dứt khoát. Một dòng máu đỏ phụt ra nhuộm đỏ lưỡi dao và cánh tay tôi.


Con nai tội nghiệp kêu thé lên một tiếng dài thảm thiết, cả cơ thể nó rung lên bần bật, mỗi lúc một mạnh dần, để rồi cuối cùng chuyển hẳn thành những cú co giật dữ dội, đến nỗi sợi dây cột chặt hai chân sau bị văng ra mất. Tôi liền quẳng dao rồi nhảy vọt ra ngoài, để yên cho con vật đáng thương vặn vẹo và rên rỉ.

"Sẽ nhanh thôi, sẽ nhanh thôi." - tôi thì thầm như thể an ủi nó.

Vài phút sau, khi máu đã ngừng chảy và con vật tội nghiệp đã hoàn toàn bất động, nó đã nhận được món quà mà tôi gửi, giờ thì tới lượt món quà của tôi. Phải xẻ thịt càng nhanh càng tốt, trước khi mùi tanh của máu dẫn dụ những kẻ thù khác. Tôi tháo dây và lôi xác con vật ra khoảng sân sau lưng nhà thờ, vì ở đó có một hồ cá nhỏ, chứa đủ nước để tôi mổ bụng chiến lợi phẩm.


Trước đây ngoài gà vịt, tôi chưa từng làm thịt loại nào khác, nhưng chắc cũng không khác nhau là mấy. Nếu gà vịt thì phải nhổ lông, thì hươu nai cũng phải lột da. Đó, đơn giản vậy thôi. Một bộ da nguyên vẹn kèm với cặp sừng luôn có giá trị nhất đối với các thợ săn. Nhưng tôi không quan tâm, thịt mới là thứ tôi cần, thế nên tôi bắt đầu mổ bụng, loại bỏ hết nội tạng và lọc ra những tảng thịt lớn.


Do kỹ thuật kém nên tôi không những mất rất nhiều thời gian mà còn bỏ phí khá nhiều thịt, do bị dính lại trong bộ xương. Cuối cùng cũng chỉ thu được tầm chục ký thịt từ một con mồi gần cả tạ, nhưng chừng đó cũng là quá quý giá rồi.


Mặt Trời đã ở vị trí hai giờ chiều. Mới đó đã mất hết nửa ngày, giờ cần nhanh chóng xử lý trước khi đống thịt bắt đầu thối rữa. Từng này thịt có thể dùng trong nhiều ngày, nhưng là khi chúng được bảo quản tốt, không bị phân hủy. Đang là giữa mùa hè, và những tảng thịt tươi khó mà giữ nổi mình trong thời tiết nóng ẩm thế này. Chỉ cần một ngày thôi cũng đủ để chúng bắt đầu bốc mùi.


Lúc này bịch muối nhặt ở siêu thị tưởng chừng vô dụng đã phát huy công dụng, tôi lấy ra và đắp hết lên số thịt mình có, chỉ để dành một chút phòng hờ. Nhưng như vậy là chưa đủ, ướp muối cũng không thể kéo dài tuổi thọ của thịt tươi mãi mãi, tôi cần nhiều hơn thế.


Tôi chặt thịt thành từng miếng nhỏ, cố cắt sao cho mỏng nhất có thể rồi đem phơi dưới nắng, với hy vọng sẽ thu được một món thịt nai khô ra trò. Nhưng có vẻ như vài giờ nắng còn lại của ban ngày là không đủ, những lát thịt sẽ sớm bốc mùi nếu vẫn còn dư ẩm. Để tránh chuyện này, tôi cần phải tiếp tục hong khô chúng ngay khi đêm xuống.

Tôi sắp sẵn một đống củi to, và chuẩn bị một tấm vỉ nướng khổng lồ tự chế bằng cách đặt một tấm lưới hàng rào mắt cáo rỉ sét lên ba hàng gạch đỏ mốc meo được xếp cao tới ngang ngực người lớn.


Sở dĩ tôi phải đặt cao như vậy vì không muốn sức nóng của ngọn lửa làm cháy thịt. Thứ tôi muốn là một lượng nhiệt vừa đủ để làm khô những lát thịt, nhằm tăng thời hạn sử dụng của chúng. Nếu lửa quá lớn, tôi sẽ có món thịt nướng thay vì thịt khô dự trữ. Với hệ thống xông khói này, thịt được hong khô cả ngày lẫn đêm, và sẽ kịp khô trước khi chúng bị thối.


Tối đó, khi tôi cắn một miếng thịt nai nướng, lần đầu tiên trong những ngày khổ cực vừa qua tôi mới cảm nhận được sự thỏa mãn của vị giác. Suốt ba ngày qua tôi chỉ được ăn rau củ rừng cầm hơi, phải đến bây giờ tôi mới được có chút đạm để bổ sung cho tấm thân sắp héo mòn này. Tôi ăn thật nhiều, nhiều nhất mà tôi có thể trước khi những lo toan khác lại ập đến.

Mặc dù đêm đó bầu trời nhiều mây nhưng tôi vẫn chọn ngủ cạnh đống lửa vì dự cảm trời sẽ không mưa, cũng là để trông coi mớ thịt đang hun trên bếp. Rút kinh nghiệm đêm trước, lần này mỗi lần đi đâu tôi đều mang theo một cây đuốc nhỏ. Nó được thiết kế đơn giản, là một khúc cây có đường kính chừng nửa gang tay, được khoét một miệng lỗ trên đỉnh để nhét đầy bọc ni lông - vốn là thứ thừa mứa và dễ kiếm nhất ở đây. Miệng đuốc tuy không quá lớn, nhưng lại chứa được nhiều nhựa hơn tưởng tượng của tôi, bởi lẽ những chiếc bọc khi bị đốt nóng đều teo nhỏ lại cả chục lần kích thước ban đầu. Điểm yếu khá lớn của nó là tôi luôn phải giữ cây đuốc thẳng đúng, nếu không chất cháy sẽ văng hết ra ngoài.


Để chắc ăn hơn, tôi còn đốt thêm ba đống lửa nhỏ khác ở xung quanh như một hàng rào bảo vệ. Vùng sáng càng rộng, tôi càng an toàn. Để tránh cảnh phơi sương phơi gió ngoài trời, tôi đã dựng tạm một túp lều chữ A nhỏ bằng những tấm bạt nhựa chấp vá và lá cây thu nhặt được. Dưới đất thì tôi đặt hẳn một chiếc ghế gỗ để làm chỗ ngủ cho an toàn.


Tôi xếp thêm củi vào các đống lửa rồi chui vào lều, lòng thầm cầu nguyện cho đêm nay mưa đừng rơi. Đây đã là đêm thứ ba tôi ngủ ngoài trời, tiếng vo ve của đám ruồi muỗi cũng không còn là vấn đề quá lớn, tôi đã bắt đầu quen với giấc ngủ núi rừng. Nhưng vẫn còn thứ khiến tôi lo ngại: những giấc mộng kỳ lạ, liệu chúng có lại đến?


Ngay khi vừa nhắm mắt, hình ảnh của cô gái trong giấc mơ đêm qua lại hiện lên, và cứ lởn vởn mãi trong tâm trí chẳng chịu rời đi. Tuy viễn cảnh mộng mị đó đã mờ nhạt phần nào, nhưng tôi vẫn có thể hình dung lại khuôn mặt của cô ta một cách rõ ràng nhất. Đó hoàn toàn là một người xa lạ, nhưng lại khiến tôi có cảm giác quen thuộc, như thể đã từng gặp đâu đó trước đây rồi. Đáng tiếc thay, dù có cố gắng đến mấy tôi cũng không tài nào nhớ ra được.


"Cú cú!" - tiếng chim săn đêm lại vọng lên như báo hiệu đã đến giờ tôi phải nhường khu rừng lại cho nó.


Đêm nay nực hơn đêm trước, bầu khí nóng khiến tôi trằn trọc mãi không ngủ được, đầu óc lởn vởn mãi những câu hỏi không lời đáp. Càng nhận ra nhiều sự thật, hy vọng lại càng vơi đi. Có những lúc tôi phải tự phân tán suy nghĩ của bản thân để xua đi cảm giác chơi vơi vì phải một thân một mình cô độc đối mặt với thế giới nghiệt ngã này. Những ý tưởng tiêu cực vẫn lẩn khuất đâu đó rồi thỉnh thoảng lại nhảy ra ám ảnh cái tâm trí đầy mệt mỏi: "Nếu như tất cả mọi người đều đã chết, thì tôi tiếp tục để làm gì?" Rồi tôi lại tự phản biện "sống phải thấy người, chết phải thấy xác", vì chưa thấy cái xác nào, tôi sẽ vẫn tiếp tục.

"Cú cú", tiếng con chim gọi hồn lại kêu vang. Còn tôi thì lờ mờ chìm dần vào giấc ngủ.

Không rõ thời gian đã trôi qua bao lâu, và tôi đã ngủ hay chưa, nhưng giờ đây tôi lại thấy mình đang đứng ở ngưỡng cửa một ngôi nhà nhỏ, trên lưng là một chiếc ba lô chắc nịch. Xa xa ở phía dưới bếp là một cô gái xinh đẹp quen thuộc đang đùa giỡn cùng một đứa bé lém lỉnh.


"Ba về rồi kìa." - Bạn gái, giờ đã là vợ tôi nói với đứa trẻ một cách đầy hào hứng khi nhận ra tôi, kèm theo sau là một nụ cười dịu dàng khiến con tim tôi lạc nhịp.

Đứa trẻ reo lên "ba ba" rồi chạy một mạch về phía tôi bằng những bước chân lóng ngóng.

"Ba nhớ con quá." - Tôi hỏi sau khi ôm chầm lấy đứa bé. "Ba có quà cho con trai của ba nè."

"Hạo!", vợ tôi vỗ vào mông đứa trẻ và nói, "nói cho ba nghe con có nhớ ba không nè?"

Một giọt nước lạnh rơi bộp vào mặt khiến tôi tỉnh dậy. Bằng cách nào đó mà tôi đã lăn ra khỏi lều khi trời mới tờ mờ sáng, và bị những giọt mưa đầu tiên của ngày mới đánh thức. Tôi nhanh chóng đứng dậy để kiểm tra và thu dọn những miếng thịt đang hong khô trên vỉ nướng, chúng vẫn an toàn và đang khô đi đúng tiến độ. Giọt nước rơi vừa rồi thực ra chỉ là những giọt sương đêm đọng lại trên rặng liễu, rồi bị một cơn gió nhẹ xua rơi lả tả xuống mặt đất.


Một giấc mơ thật đẹp, vậy mà tôi luôn tỉnh dậy vào những lúc quan trọng nhất.

Hạo, cái tên mà tôi luôn muốn đặt cho đứa trẻ của mình, nếu nó là một bé trai. Tôi luôn muốn con trai mình có một cái tên ngắn gọn, không màu mè hoa mỹ, cũng không nặng ẩn ý, để đứa trẻ không phải bận tâm về những kỳ vọng mà cha mẹ gửi gắm trong cái tên của mình. Hạo, tôi không biết thực sự nó có nghĩa gì không, nhưng người ta sẽ chú ý đến âm tiết của nó hơn là ngữ nghĩa. Sẽ chỉ có hai chữ, họ và tên, không tên đệm, ngắn gọn và đơn giản nhất có thể. Nhưng giờ đây, mong muốn nhỏ nhoi này đó có thể mãi mãi chỉ là một mộng tưởng hão huyền.


Thịt nai đã gần khô hoàn toàn, tôi lấy vài miếng ăn chung với khoai nướng, phần còn lại thì cất vào những bịch ny lông đã rửa sạch và nhét vào ba lô. Những miếng thịt mỏng đã khô hoàn toàn, nhưng miếng lớn và dày hơn vẫn còn chút ẩm, nhưng tôi không cần hong dưới lửa nửa, chỉ cần thêm một ngày nắng ráo là chúng sẽ hoàn hảo.​

BÌNH LUẬN