Logo
Trang chủ

Ngoại truyện 14: Ẩn thân pháp

Kiến thức về Lỗ ban rất rộng và biến ảo. Trong quá trình viết chính em cũng phải ngừng một thời gian vì Lỗ ban. Chuyện cũng chẳng có gì xin kể sau. Dù là rất dài dòng, rời rạc nhưng em vẫn muốn đề cập đến Phụ lục Lỗ ban thất hào


Hai mặt của người Tàu và Ẩn thần thức- Ẩn thân pháp cấp độ tối thượng


Thế Vinh

Lương Thế Vinh hiệu là Thụy Hiên, người ở làng Cao Hương huyện Thiên Bản tỉnh Nam Định. Khi còn bé đã có tiếng đồn là thần đồng. Đến năm 23 tuổi thi đỗ Trạng nguyên trong năm Quang Thuận đời vua Thánh Tông nhà Lê. Tục truyền Thế Vinh đã thác sinh ở huyện Nam xang. Khi lên 7, 8 tuổi cùng với trẻ con đi học, bên cạnh đường có một con chó đá, mỗi khi Thế Vinh đi qua thì con chó đá vẫy đuôi mà mừng. Về nói chuyện với cha, cha bảo rằng:

-Nó đã biết vẫy đuôi thì hẳn nó cũng biết nói, thử hỏi vì cớ gì mà mừng.

Hôm sau Thế Vinh đi qua, con chó ấy lại vẫy đuôi, Thế Vinh hỏi thì nó nói rằng:

-Ngày sau ông đỗ Trạng nguyên cho nên tôi mừng thay cho ông.

Thế Vinh về nhà nói lại với cha như thế. Cha tự bấy giờ chắc ngày sau con làm nên, sinh ra kiêu ngạo, thường hay tranh cạnh với người ta mà đe rằng:

-Mai sau con ông đỗ Trạng, ông sẽ hỏi tội chúng bay.

Thế Vinh thấy cha như thế, can mãi mà cha không nghe, có ý không bằng lòng, buồn rầu mà bảo với mẹ:

-Mẹ có đức hiền hậu mà cha thì kém đức, con không ở đây nữa xin từ đi chỗ khác đây.

Mẹ ngạc nhiên thất sắc nói rằng:

-Sao con nói gở ra thế? Công cha nuôi con bấy nhiêu lâu nay, mong con mai sau khá giả để mà nương nhờ, con đã lấy gì trả được ơn cha mẹ mà dám nói càn như vậy?

Thế Vinh khăng khăng một mực xin đi. Mẹ khuyên dỗ trăm chiều nhưng cũng không sao giữ được, mới khóc mà bảo rằng:

-Vậy con định đi đâu? Con bảo cho mẹ được biết.

Thế Vinh dặn mẹ cứ đến ngày ấy tháng ấy đến làng Cao Hương huyện Thiên Bản thì biết. Và dặn giữ lại các sách của mình học. Nói xong thì mất.

Bấy giờ vận nước Nam đang thịnh, người Tàu xem thiên văn thấy văn tinh giáng xuống nước Nam mới sang nước ta tìm phương trấn áp. Khi Thế Vinh còn ở Nam xang, đi chơi với một lũ trẻ con. Người Tàu trông sao biết văn tinh ở trong đám trẻ con ấy, nhưng chưa biết đích là đứa nào. Mới lấy một quả bưởi bỏ vào hố sâu, đố đám trẻ ấy lấy được quả bưởi ra thì thưởng tiền. Thế Vinh không ra mặt lấy, nhưng xui một đứa khác múc nước đổ vào hố cho đầy rồi quả bưởi nổi lên thì lấy. Người Tàu gạn hỏi đám trẻ mới biết là mưu mô từ Thế Vinh muốn tìm phương kế trừ đi. Nhưng chưa kịp làm gì thì Thế Vinh đã mất. Trông xem thiên văn biết thần thức của Thế Vinh chạy sang làng Cao Hương, mới đuổi theo đến tận làng ấy thì thấy thần thức ấy đã nhập vào trong hòn đá to. Người Tàu hỏi người chủ có hòn đá, xin mua. Người chủ hòn đá tưởng nó hỏi đùa mình, mới nói bỡn rằng:

-Hòn đá này phải 100 quan tiền mới bán.

Người Tàu giả đến 70 quan, người chủ không biết thế nào, tưởng là nó cợt mình, nhất định không bán. Người Tàu thấy không bán, giả tảng đi nơi khác. Có người đàn bà ở ngoài đồng đi về, thấy xúm xít chuyện người khách hỏi mua hòn đá. Người đàn bà mới giẵm chân vào hòn đá mà nói rằng:

-Hòn đá này quý hóa gì mà nó mua đắt thế?

Không ngờ thần thức Thế Vinh ở trong hòn đá, từ bấy giờ đầu thai ngay vào người liền bà ấy. Hôm sau người Tàu trở lại toan cố vật nài để mua hòn đá cho được. Người chủ hòn đá cũng định bán vậy cho nó. Nhưng khi đến nơi thì người Tàu trông hòn đá biết thần thức đã xuất mất, mới nói rằng:

-Bây giờ thì một đồng cũng chẳng mua nữa.

Người Tàu biết là không thể nào trấn áp được, mới trở về Tàu.


Khi Thế Vinh mới sinh ra, ngày đêm chỉ một vị khóc, cha mẹ rồi hàng xóm thay nhau ôm ẵm cũng vậy. Người mẹ trước nhớ lời con dặn, hỏi thăm đến tận làng ấy, nghe có một nhà mới đẻ con giai, mà chỉ khóc cả ngày lẫn đêm. Hỏi đến tận nhà vào chơi, xin chủ nhà ẵm đứa bé một tí, từ đấy đứa bé mới thôi khóc. Bà kia mới kể chuyện đầu đuôi con mình với chủ nhà, từ đó thường thường đi lại coi như con mình.

Đến khi Thế Vinh mới nhớn lên, bảo với bà mẹ trước rằng:

-Những sách của tôi thủa trước cùng là tôi có món tiền chôn ở dưới gốc cây chuối thì đem đến đây cho tôi.

Bà kia về đào dưới gốc cây chuối thì quả nhiên thấy có món tiền mới đem cả sách và món tiền sang đưa cho Thế Vinh. Cha mẹ đẻ mới lấy làm tin, nuôi bà kia ở đấy một thể.

Thế Vinh học đến đâu như người học ôn lại. Đến năm 23 tuổi thi đỗ Trạng nguyên. Vua Thánh tôn thấy Thế Vinh là người hay chữ dùng làm chức Hàn lâm thị thư chưởng viện. Bao nhiêu tờ bồi giao thiệp với nhà Minh tự tay Thế Vinh soạn ra cả. Người Tàu phải chịu nước Nam có tay giỏi chữ nghĩa. Bộ Đại Thành Toán Pháp là của Thế Vinh làm ra.


Giáp Hải

Giáp Hải thi đỗ Trạng nguyên khoa Mậu Tuất năm Đại Chính nhà Mạc (1538). Mẹ Giáp Hải là người làng Công Luận huyện Văn Giang. Bà cụ khi còn trẻ nghèo lắm, chỉ có vài gian nhà gianh ở cạnh đường bán hàng nước. Bấy giờ có một người Tàu đi qua đường vào hàng nghỉ, lúc đi bỏ quên một túi bạc. Cách nửa tháng mới hốt hoảng lại hỏi, thì bà ấy đem cả túi ra trả, vẫn nguyên như lúc trước. Người khách xin biếu lại một nửa, bà ấy không lấy nói rằng:

-Tôi chỉ vì không ưa của bất nghĩa cho nên mới nghèo thế này, sao bây giờ tôi có chịu lấy của ông.

Người khách cảm tạ bụng ấy, mới hỏi rằng:

-Mồ mả đấng Tiên nhân nhà bà ở đâu? Để tôi tìm giúp cho bà một ngôi đất hay.

Bà nói:

-Tôi là đàn bà chỉ có trọi một mình, không có anh em nào cả. Nay đã ngoài 40 tuổi, dù có được đất hay thì bao giờ cho phát đạt? Mà phát đạt thì có làm gì nữa.

Người khách nói:

-Nếu được chỗ đất hay, thì dẫu đàn bà cũng phát phúc.

Bà ấy mới đưa người khách đến chỗ ngôi mộ cha bà ấy. Người khách lập tức tìm đất cất cho, rồi dặn rằng:

-Về sau thấy ai có nạn đến đây phải sẵn lòng mà cứu người ta, thì sẽ có cát báo.

Bà ở đấy được nửa năm, có người làng Bát Tràng nhà nghèo đi làm mướn kiếm ăn, khi ấy trời đã tối, gặp cơn mưa gió quần áo ướt lướt thướt, rét run cầm cập qua hàng bà xin vào chọ một tối. Bà hỏi đầu đuôi cặn kẽ cho vào ngủ rồi đốt lửa cho sưởi và dọn cơm cho ăn. Đêm hôm ấy rét lắm mà nhà thì chỉ có độc một chiếc chiếu. Người kia thì rét không có chiếu không chịu được mà bà thì cũng không thể nào mà nhường được chiếu cho. Mà để khổ thì chẳng đành lòng, mới cho nằm chung một giường mà ngủ.

Chàng kia đã được no ấm lại nằm chung với phụ nữ, lạ gì lửa gần rơm, thành ra tư thông với nhau. Không ngờ chàng kia bị chứng hàn thấp chỉ một lúc thì tắt hơi. Bà kinh hoảng vô cùng, sợ người ta phát giác ra đang đêm phải lôi ra đám tha ma vùi xuống, mà bà cũng có mang từ đấy. Được vài tháng người Tàu lại có việc ngang qua, đến hỏi:

-Tự khi táng mả đến giờ đã cứu được việc gì cho người nào chưa?

Bà không giấu giếm gì, kể cả sự trước cho người khách nghe. Người khách hỏi:

-Chôn chỗ nào chỉ tôi xem.

Bà đưa người ấy ra chỗ mả chàng kia. Người khách ngắm nghía một hồi rồi nói rằng:

-Chỗ này là huyệt Thiên táng đấy. Nếu có thai thì tất sinh ra Trạng nguyên Tể tướng.

Bà ấy đầy năm quả nhiên sinh được con giai, cốt cách khác người thường. Khi lên 4 tuổi, ra chơi ngoài bờ sông có người lái buôn ở làng Sinh kế huyện Phượng nhỡn bơi thuyền qua bến trông thấy thằng bé nhẵn nhụi mà ăn cắp đem xuống thuyền đi mất.

Bà mẹ tìm con đâu cũng không thấy, tưởng là chết đuối dưới sông rồi, sầu thảm vô cùng. Người lái tự khi đem đứa bé về, yêu mến lắm, mới lớn đã tìm thầy dạy cho đi học. Học hành ngày một tấn tới, văn chương hay nhất một thời. Đến năm 32 tuổi thi đỗ Trạng nguyên. Hôm vinh quy về làng, người trong làng phải phục dịch khó nhọc than:

-Người ở xứ nảo xứ nào đến đây mà làm khổ dân ta thế này!

Giáp Hải nghe được câu ấy, không biết vì nguyên cớ làm sao nhưng trong bụng hồ nghi lắm. Về xem mồ mả tổ tiên thì không có ngôi nào đáng phát Trạng, có người biết chuyện mà nói với ông, Giáp Hải đến tận làng Công Luận dò xem, thì thấy có bà cụ già ngoài 70 tuổi, bán hàng bên cạnh đường, trông tình cảnh khốn đốn lắm. Ông cho người vào hỏi rằng:

-Bà cụ kia có chồng con gì không, sao mà khốn khó thế này?

Bà cụ nói:

-Tôi là người ở làng này, khi xưa có đẻ được một mụn con giai, 4, 5 tuổi chơi với trẻ con ở bờ sông, rồi không biết nó lạc đi đâu mất. Bây giờ chỉ còn một thân, không biết nương cậy vào đâu.

Giáp Hải đồ là mẹ mình mới sai người bảo rằng:

-Bà cụ già cả mà không có ai trông nom thì theo về với tôi để tôi nuôi cho, có bằng lòng không?

Bà cụ nói:

-Nếu quan lớn có bụng thương tôi như thế thì phúc cho tôi lắm!

Giáp Hải mới đem về nuôi cũng chưa dám chắc hẳn là mẹ mình. Chân ông có cái nốt ruồi đỏ thường khi ngồi nhàn rỗi mới để lộ ra. Bà cụ một hôm trông thấy, cứ nhìn tròng trọc mà không chớp mắt.

Người nhà quan quở rằng:

-Quý thể quan lớn bà cụ kia sao dám cứ nhìn mãi thế?

Bà cụ nói:

-Con giai tôi khi xưa cũng có cái nốt ruồi như thế, nay tôi trông thấy lại nhớ đến con tôi, nên tôi nhìn ngắm một chút xin quan lớn thứ lỗi cho tôi.

Giáp Hải lập tức cho gọi bà ấy hỏi cặn kẽ từng tí. Rõ ngọn cành ông buồn rầu mà than rằng:

-Ta bậy bạ uổng mất một đời có mẹ mà không biết, nay nhờ giời mà lại được gặp đây, mới biết đến mẹ.

Từ bấy giờ mẹ con nhìn nhận nhau, hết đạo phụng thờ sớm tối. Về sau Giáp Hải làm Đề điệu trường thi hương ở tỉnh Sơn Nam. Một kì ông ra đầu bài hiểm hóc, học trò nhao nhao, toan sự phá trường mà ra, sau ông phải điều đình ra đầu bài khác học trò mới yên. Sai người điều tra dò xét bắt được người thủ xướng phá trường, sai điệu ra ngoài cửa trường kết án trảm quyết. Người học trò ấy nhà độc đinh xin nộp nghìn quan tiền chuộc tội, nhưng Giáp Hải không nghe nhất định chính pháp.

Được ít lâu con Giáp Hải là Giáp Phong cũng đã đỗ Tiến sĩ làm quan trong tòa Hàn lâm, đã ngoài 30 bỗng một hôm vô bệnh mà mất. Rồi bốn con trai cùng hai con gái cũng mất luôn một dạo. Giáp Hải thương xót vô cùng, mời thầy phù thủy đánh đồng thiếp.

Thầy phù thủy bảo ông ngồi tĩnh nhắm mắt lại rồi thư phù niệm chú một lúc, bỗng nhiên ông ngã gục xuống. Trong khi ấy, thấy có một người sứ giả đến đưa đến một nơi cung phủ, trong đó có ba bộ ngai ngồi bên cạnh có một tấm phản và một cái gông sơn đỏ để đó.

Giáp Hải hỏi những người canh cửa dinh tòa nào thì họ đáp:

-Đây là tòa Diêm Vương hỏi kiện đây, cái gông sơn đỏ là để chờ quan Trạng nguyên ở làng Sinh kế đấy.

Giáp Hải nghe nói vậy lập tức ra ngay. Sứ giả lại đưa đến một chỗ đền đài mát mẻ, phong cảnh lạ lùng. Ông trông thấy con là Giáp Phong đang ngồi đánh cờ với một ông quan khác. Phong trông thấy cha cũng ngoảnh mặt nhìn ra nhưng không nói một câu nào. Ông quan kia hỏi rằng:

-Ông cũng quen người ấy đấy ư? Sao mà nhìn mãi người ta thế.

Phong nói rằng:

-Tôi trước kia cũng ở trên trần, có trọ nhà ông ta hơn 30 năm, vì ông ta giết oan mất một người cho nên tôi không ở nữa. Nay thấy ông ta đến đây chẳng lẽ không nhìn một chút.

Giáp Hải thấy nói vậy không hỏi gì nữa đi ra. Sứ giả đưa về thì tỉnh. Biết là cái nợ oan gia mà lẽ báo ứng của nhà Phật cũng có. Vì thế sai gọi nhà người học trò bị giết khi trước cho tiền về làm chay cho anh ta. Từ bấy giờ nhà ông cũng yên ổn không việc gì.

Về sau làm đến Lại bộ thượng thư, Thái bảo Sách quốc công rồi về nhà trí sĩ.

Quay lại truyện Bạn gái tôi lớp 8
BÌNH LUẬN